Theo đại biểu, cần tạo cơ chế, tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp phát triển, hạn chế đến mức thấp nhất các hỗ trợ mang tính trực tiếp hoặc hỗ trợ tài chính. Việc hỗ trợ phải mang tính khuyến khích doanh nghiệp lớn mạnh, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng doanh nghiệp "không chịu lớn", chỉ thích nhỏ để được hỗ trợ và doanh nghiệp càng nhỏ thì nhận hỗ trợ càng nhiều.

Chính sách hỗ trợ còn mang tính “tuyên ngôn”

ĐB Phạm Thị Thu Trang (Quảng Ngãi) cho rằng, nhiệm vụ về quyền hạn và trách nhiệm quản lý Nhà nước trong hỗ trợ DNVVN nêu trong dự thảo nêu còn chung chung, chưa quy định rõ trách nhiệm cấp bộ, cơ quan ngang bộ. Do đó, cần phải cụ thể hóa các chính sách và tổ chức thực hiện theo thẩm quyền lĩnh vực, ngành mình quản lý.

Chung quan điểm, ĐB Trần Thị Hiền (Hà Nam) cho rằng, các chính sách hỗ trợ đang “tuyên ngôn” quá nhiều, trong khi ý nghĩa thực chất và tính khả thi của chính sách còn rất hạn chế.

leftcenterrightdel
ĐB Đỗ Văn Bình. Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội 

Các quy định của Chương 2 đặt ra thách thức rất lớn đối với cơ quan chủ trì, tiếp thu dự án luật bởi tình trạng một số quy định chưa rõ tính chất hỗ trợ gì, mang lại lợi ích gì cho DNVVN, còn theo kiểu chung chung như: Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi... ĐB Hiền nêu ý kiến, do đó chưa rõ chủ thể chịu trách nhiệm triển khai hỗ trợ thuộc cơ quan tổ chức nào.

Mặt khác dự án luật chưa đặt DNVVN vào vị trí trung tâm để thiết kế quy phạm về chính sách hỗ trợ, ví dụ Điều 10 với tên gọi Hỗ trợ quyền tiếp cận tín dụng từ các quỹ nhưng thực chất là quy định về chức năng nhiệm vụ và phân loại phân cấp các quỹ Nhà nước, không thấy quyền tiếp cận tín dụng của DNVVN thể hiện thế nào; chưa thấy dự báo khả năng đầy đủ về nguồn lực để bảo đảm tính khả thi của chính sách, ĐB tỉnh Hà Nam cho ý kiến.

Đồng tình với việc xây dựng dự án luật, nhưng ĐB Đỗ Văn Bình (Hải Phòng) cho rằng, việc hỗ trợ cần đảm bảo bình đẳng với các loại hình DN, không phân biệt trong cơ chế tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ. Do đó, nếu xây dựng riêng một luật thì dường như chỉ tập trung hỗ trợ cho DNVVN. Hơn nữa, để việc hỗ trợ doanh nghiệp đạt hiệu quả cần phải nghiên cứu kỹ, phân tích những đặc thù, khó khăn, vướng mắc những vấn đề doanh nghiệp thực sự cần để xây dựng các nội dung hỗ trợ phù hợp hiệu quả. Hiện nay, đối với các DNVVN, những vấn đề như khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng do thiếu tài sản đảm bảo, trình độ khoa học, công nghệ và năng lực đổi mới còn thấp, trình độ quản lý và chất lượng nguồn lao động còn hạn chế, năng lực tiếp cận chính sách là những vấn đề cần được tập trung, quan tâm luật hóa những nội dung giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ để đạt kết quả. Tuy nhiên, nếu đặt vấn đề hỗ trợ cho tất cả các doanh nghiệp, gồm cả doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ và các hộ kinh doanh, thì sẽ không khả thi vì đối tượng hỗ trợ sẽ rất lớn trong khi nguồn lực của nhà nước có hạn, ĐB Bình cho biết thêm.

ĐB Nguyễn Bá Sơn (TP Đà Nẵng) đề nghị hoàn thiện các định nghĩa pháp lý về hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo vì doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Mặt khác, có quy định cho phép các địa phương trong phạm vi khả năng của mình có thể thành lập các quỹ hỗ trợ khởi nghiệp, xử lý tốt các vướng mắc trong quy định về hoạt động của quỹ phát triển khoa học và công nghệ, để vận hành thông thoáng, linh hoạt, thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp.

Hỗ trợ những thứ DN cần, không phải cái Nhà nước có

Giải trình về những kiến nghị mà đại biểu quan tâm, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng khẳng định, đây là một luật hết sức quan trọng, phức tạp và khó, do đó, trên cơ sở ý kiến các đại biểu, sẽ tiếp tục nghiên cứu, soạn thảo để kỳ họp tới đưa ra thông qua trước Quốc hội.

leftcenterrightdel
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng. Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, tổng số DNVVN hiện đang chiếm 97% tổng số 610.000 doanh nghiệp ở Việt Nam và thực trạng của họ hiện nay đang rất khó khăn về tiếp cận về tín dụng, về mặt bằng; khó tiếp cận về công nghệ, thị trường, về các tư vấn, đào tạo và thông tin bởi họ rất nhỏ, không có điều kiện để đầu tư để nghiên cứu hay đi xúc tiến đầu tư, mà phải dựa vào Nhà nước, dựa trên những dịch vụ công để hình thành, lớn lên và đóng góp cho xã hội.

Khu vực DN này có những đóng góp rất lớn về việc làm, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập, giảm khoảng cách giàu nghèo, góp phần ổn định xã hội, giảm tệ nạn, ổn định chính trị. Do đó, cần nhìn nhận vai trò lớn nhất của họ là đóng góp việc làm, rồi mới nói đến đóng góp ngân sách. Nếu không có một cơ chế chính sách cho họ thì họ rất khó để vươn lên, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định.

Bộ trưởng cũng cho biết, tất cả các cơ chế chính sách trong Nghị định 56 và 90 trước đây đều rời rạc và chung chung, không cụ thể và không có tính khả thi nên không đi vào cuộc sống, không luật hóa thì chúng ta không thể làm được. Đây là một bước để luật hóa lên và cụ thể hóa những chủ trương, chính sách một cách khả thi hơn để tạo sự đóng góp giúp cho các doanh nghiệp một cách cụ thể nhất và khả thi cao nhất. 

Nghị quyết Đại hội XII, kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế chúng ta vừa thông qua, tất cả chúng ta đều nói khu vực doanh nghiệp sẽ là động lực, xương sống cho nền kinh tế trong cơ cấu lại nền kinh tế và trong giai đoạn tới phát triển nhanh và bền vững thì chúng ta phải tập trung hỗ trợ, lấy doanh nghiệp làm động lực cho phát triển và lấy khu vực tư nhân là khu vực quan trọng để giảm nguồn lực huy động từ Nhà nước. Chúng ta xác định mục tiêu cụ thể là có 1 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm 2020. Đấy là những vấn đề chúng ta đã đặt ra, bây giờ chúng ta phải thiết kế để hỗ trợ, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nói.

Bộ trưởng cũng khẳng định, Ban Soạn thảo và Chính phủ đã xác định nguyên tắc hỗ trợ không vi phạm các nguyên tắc thị trường, không vi phạm các cam kết thực tế và phù hợp với khả năng của ngân sách trong từng thời kỳ.

Các nguyên tắc này cũng đã được xác định rõ và việc hỗ trợ không phải là hỗ trợ những thứ Nhà nước có, Nhà nước muốn mà hỗ trợ những doanh nghiệp cần; cũng không phải hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp mà hỗ trợ gián tiếp thông qua các tổ chức cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp được hưởng lợi thông qua dịch vụ công đó thì càng có lợi và khả thi.

Về tiếp cận tín dụng của ngân hàng, đây không phải là quy định cứng nhắc bắt buộc để các ngân hàng phải có tỷ lệ bao nhiêu hỗ trợ cho doanh nghiệp mà là khuyến khích các ngân hàng thương mại xây dựng các gói hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa với các lãi suất, thời hạn vay ưu đãi, thủ tục dễ dàng tiếp cận. Nếu các ngân hàng thương mại hỗ trợ cho các DNVVN thì sẽ được Nhà nước hỗ trợ lại, tức là được cấp bù lãi suất.

THU HÀ