Dấu ấn nền tảng cho bứt phá đổi mới
Năm 1986, Việt Nam bước vào đổi mới khi mà nguồn nhân lực đất nước còn thiếu rất nhiều cán bộ có trình độ, kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo kiến thiết nước nhà, phát triển kinh tế thị trường. Bấy giờ, Trung ương cũng chưa có cơ sở thực tiễn để xây dựng, ban hành ngay một nghị quyết lãnh đạo về xây dựng đội ngũ cán bộ (ĐNCB). Do đó, sau hơn 10 năm (đến năm 1997) là khoảng thời gian vừa đủ để tạo ra điều kiện chín muồi cho việc tiến hành tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm, vạch định chủ trương, giải pháp xây dựng ĐNCB trước yêu cầu đẩy nhanh, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới.
 |
Công chức, viên chức tiếp đón, làm việc với nhân dân tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Long An. Ảnh: Minh Vương |
Bởi vậy, NQTƯ 3 được ban hành mở ra tầm nhìn mới cho toàn Đảng, toàn dân về vai trò, vị trí, ý nghĩa, tư duy, cách làm trong tiến hành công tác cán bộ (CTCB). Bắt đầu từ đó, qua hơn hai thập niên thực hiện chiến lược cán bộ, ĐNCB các cấp có bước trưởng thành nhiều mặt. Trong Đảng xuất hiện ngày càng nhiều cán bộ, đảng viên năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và hoàn thành tốt nhiệm vụ; từng bước đáp ứng với sự chuyển đổi của đất nước từ thế bị bao vây, cô lập, cấm vận sang thế chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; từ xây dựng Nhà nước chuyên chính vô sản sang xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ XHCN.
Theo Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, thực hiện NQTƯ 3, Trung ương đã “chuyển hóa” được sức mạnh của nguồn nhân lực từ giỏi chiến đấu, giàu kinh nghiệm trận mạc sang giỏi quản lý, điều hành xây dựng đất nước, từng bước thích nghi và giỏi vận hành, phát triển kinh tế nước nhà. Những năm gần đây, Trung ương đã lãnh đạo xây dựng được nhiều cán bộ có tư duy đổi mới, thích ứng nhanh với xu hướng phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ cao trên thế giới và có năng lực làm việc trong môi trường hội nhập quốc tế… được nhân dân tin tưởng, tín nhiệm.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định: Có được ĐNCB ở các cấp như hiện nay là kết quả của quá trình thực hiện chiến lược cán bộ mà NQTƯ 3 (khóa VIII) đã đề ra. Sự trưởng thành, phát triển của ĐNCB nói chung, ĐNCB lãnh đạo, quản lý các cấp nói riêng, nhất là cấp chiến lược đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước hơn 30 năm qua.
Kế thừa, phát triển tầm nhìn chiến lược
Trước thềm Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII), đồng chí Phùng Hữu Phú, Phó chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, chia sẻ: "Hơn 20 năm trôi qua, dù thực tiễn thay đổi, diễn biến mau lẹ, nhưng NQTƯ 3 (khóa VIII) vẫn còn nhiều quan điểm, nội dung rất đúng, rất hay, vẹn nguyên giá trị cần được nghiên cứu vận dụng, phát triển trong tình hình mới".
Nhất trí với quan điểm đó, tại các cuộc đóng góp ý kiến cho Trung ương chuẩn bị văn kiện trình Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII), nhiều đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã nêu lên những ví dụ sinh động khẳng định giá trị của nhiều nội dung trong NQTƯ 3. Ví như thời điểm năm 1997, Trung ương đã sớm xác định việc tổ chức thi tuyển cán bộ, công chức. Đến gần đây, việc thí điểm thi tuyển lãnh đạo đạt nhiều kết quả tích cực ở nhiều ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương càng khẳng định rõ hơn tính đúng đắn của chủ trương này. Hay trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghị quyết cũng xác định: “... định kỳ kiểm tra kiến thức và trình độ nghiệp vụ đối với từng loại cán bộ”. Một nội dung khác cũng được dư luận đặc biệt quan tâm là: Xây dựng và thực hiện tốt chế độ miễn nhiệm, từ chức, cho thôi việc, thay thế cán bộ kém phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ...
Cùng với đó, nhiều quan điểm được đề cập trong NQTƯ 3 vẫn còn nguyên giá trị, cần được tiếp tục nghiên cứu vận dụng, như trong tuyển chọn, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ: “Quy định người được bầu vào các chức vụ cấp trưởng phải đề xuất được đề án, chương trình công tác trong nhiệm kỳ, cam kết hoàn thành nhiệm vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức”; hoặc: “Xây dựng cơ chế tiến cử cán bộ; cơ chế người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó; thí điểm giao quyền cho bí thư cấp ủy giới thiệu để bầu ủy viên ban thường vụ cấp ủy”; “Thực hiện chế độ thực tập và tập sự lãnh đạo”...
Tổng kết thực hiện NQTƯ 3 (khóa VIII), Trung ương thẳng thắn nhận định: Một số chủ trương đúng nhưng chưa được thực hiện hiệu quả là do việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm nêu trong NQTƯ 3 còn chậm, thiếu tính tổng thể, đồng bộ, liên thông. Nghị quyết ban hành năm 1997 nhưng đến năm 2002, 2004, Bộ Chính trị (khóa IX) mới ban hành nghị quyết về công tác luân chuyển và quy hoạch cán bộ; thậm chí, một số nội dung đến nay vẫn chưa được cụ thể hóa. Đặc biệt, quan điểm về CTCB ở các thời kỳ thiếu nhất quán, có lúc chú trọng về thành phần xuất thân, có lúc nhấn mạnh về quá trình và kinh nghiệm công tác, lúc lại nhấn mạnh về bằng cấp, học vị hoặc cơ cấu độ tuổi, giới tính...
Các nhà khoa học đề xuất: Đối với những nội dung có giá trị thực tiễn trong NQTƯ 3, Trung ương cần tiếp tục nghiên cứu, thảo luận; làm cơ sở tổng kết, hình thành tư duy mới, hoàn thiện và nâng tầm hệ thống lý luận mới về CTCB trước đòi hỏi thực tiễn khách quan.
NGUYỄN TẤN TUÂN