Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của DNNN, từ năm 2001 đến nay, Bộ Quốc phòng đã thực hiện 5 đề án sắp xếp, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để tổ chức lại các DNQĐ phù hợp với yêu cầu đổi mới, phát triển DNNN theo nghị quyết của Đảng qua từng thời kỳ, phục vụ tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng (QS, QP), góp phần phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH).

Trong những năm qua, nhất là 5 năm trở lại đây, DNQĐ có những bước phát triển quan trọng, góp phần nâng cao tiềm lực quốc phòng, phát triển kinh tế đất nước. Các DNQĐ đã quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quân ủy Trung ương (QUTƯ) và đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) "về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN"; Nghị quyết số 71-NQ/ĐUQSTW, ngày 25-4-2002 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là QUTƯ) về nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của quân đội trong thời kỳ mới-tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNQĐ; Nghị quyết số 425-NQ/QUTW về sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNQĐ đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của QUTƯ, Bộ Quốc phòng (BQP), những năm qua, các DNQĐ được sắp xếp, đổi mới theo đúng quy định của Chính phủ và BQP; số lượng đầu mối DN được tinh giản phù hợp với tổ chức, biên chế và chức năng, nhiệm vụ của quân đội, chủ yếu là DN quốc phòng, an ninh (QPAN) và DN kinh tế-quốc phòng (KT-QP), hoạt động gắn chặt với nhiệm vụ QS, QP của quân đội trong thời bình và sẵn sàng cho thời chiến. Đáng ghi nhận là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của kinh tế thị trường và sự tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới đối với nước ta, nhất là ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhưng các DNQĐ vẫn đứng vững trên các địa bàn chiến lược; hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) giữ được ổn định và phát triển, có tốc độ tăng trưởng khá, tỷ lệ DN SXKD có lãi tăng cao. 5 năm gần đây, hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của DNQĐ đạt được ở mức khá cao so với mặt bằng chung của DNNN, trong đó tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình quân đạt 20%, trên tổng giá trị tài sản đạt gần 10%. So với năm 2015, tổng giá trị tài sản năm 2019 tăng hơn 16%, vốn chủ sở hữu tăng 33%. Các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động SXKD tăng trưởng khá ổn định, nộp ngân sách nhà nước tăng gần 5%, bảo đảm việc làm và thu nhập cho gần 150.000 lao động với thu nhập bình quân cao hơn so với mặt bằng chung và đặt trong bối cảnh chung của kinh tế đất nước, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tăng thu nhập cho người lao động; giữ gìn và phát triển năng lực sản xuất quốc phòng, được Đảng, Nhà nước, bộ, ban, ngành Trung ương và các địa phương đánh giá rất cao, trở thành điểm sáng của nền kinh tế đất nước. Đặc biệt, đã xuất hiện những thương hiệu mạnh của DNQĐ tham gia hoạt động kinh tế ở một số lĩnh vực mà quân đội có tiềm năng, khẳng định sự tăng trưởng vững chắc và định hướng chiến lược phát triển các ngành, nghề: Xây dựng, bưu chính-viễn thông, bay dịch vụ, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ cảng biển, đóng tàu biển, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên...

Thực tiễn hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế của quân đội nói chung, DNQĐ nói riêng thời gian qua cho thấy sự cụ thể hóa một cách rõ nét quan điểm, chủ trương đúng đắn và nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Các DNQĐ dù ở biên giới, hải đảo đều hướng tới các mục tiêu: Góp phần xây dựng kinh tế, nâng cao năng lực quốc phòng, góp phần tạo thế bố trí chiến lược, đóng góp vào bảo đảm an sinh và giải quyết chính sách xã hội, tạo nguồn thu cho quốc phòng. DNQĐ cũng đã phát huy tinh thần chủ động, đi đầu trong hội nhập để tăng cường tiềm lực đất nước, mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác ở khu vực và trên thế giới, giúp ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh; xây dựng mối quan hệ mới giữa nước ta với các nước để tạo sự cân bằng hơn trong các mối quan hệ quốc tế...

Ngoài những kết quả đạt được, hoạt động SXKD, xây dựng kinh tế của quân đội nói chung, DNQĐ nói riêng vẫn còn những hạn chế nhất định do nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp, các tổ chức đoàn thể, người lao động về hoạt động SXKD, xây dựng kinh tế của quân đội chưa thật đầy đủ; năng lực cạnh tranh của các DNQĐ còn thấp, hàm lượng khoa học kỹ thuật trong sản phẩm chưa cao so với mặt bằng chung và các nước trong khu vực... Đây chính là những trở ngại có thể khiến DNQĐ đánh mất lợi thế trong các sân chơi lớn khi nước ta đang từng bước hội nhập sâu rộng với các nước trên thế giới.  

Nghị quyết số 71/ĐUQSTW đã xác định tầm nhìn, hướng đi cho các DNQĐ trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Đặc biệt, trong điều kiện hoạt động SXKD của các DNQĐ hiện nay phải luôn kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ QPAN, bảo vệ Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị đặt ra rất nhiều thách thức cho DNQĐ khi bước ra "biển lớn", buộc DNQĐ phải luôn cấu trúc lại để phát triển hiệu quả, làm mới mình để thích ứng, không bị tụt hậu. Muốn vậy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong DNQĐ phải không ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với nhiệm vụ SXKD, xây dựng kinh tế của quân đội, xem đó là vấn đề có ý nghĩa quyết định. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, các chính sách của Nhà nước, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X và các chỉ thị, mệnh lệnh của BQP, cấp ủy, chỉ huy các cấp, cơ quan, đơn vị kinh tế cũng cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, trách nhiệm của toàn đơn vị đối với nhiệm vụ SXKD, xây dựng kinh tế của quân đội trong giai đoạn mới.

Ngoài triệt để khai thác mọi tiềm năng, nội lực, mở rộng hợp tác quốc tế, tận dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến để đứng vững và phát triển trong môi trường cạnh tranh và hội nhập kinh tế toàn cầu, DNQĐ phải xây dựng được chiến lược kinh doanh hợp lý cùng bộ máy quản trị hiệu quả, khoa học. Riêng với lãnh đạo DN phải có khả năng dẫn dắt DN đón nhận cơ hội, vượt qua thách thức trong hội nhập, biết sử dụng nhân tài và tạo cơ hội cho nhiều người có kỹ năng, năng lực được cống hiến; có kiến thức quan hệ quốc tế, kiến thức pháp lý quốc tế để tham gia vào thị trường thế giới. Mặt khác, DNQĐ cũng phải tạo ra được cơ hội cho các nhà đầu tư, cổ đông chiến lược tham gia góp vốn, điều hành SXKD để huy động kinh nghiệm và tiềm lực kinh tế của họ. 

Trong bối cảnh thực trạng tái cơ cấu DNNN hiện nay còn nhiều bất cập, để việc cấu trúc lại DNQĐ được thuận lợi theo đúng lộ trình, giúp DNQĐ ngày càng phát triển hơn, theo kịp xu thế của thời đại rất cần sự hỗ trợ, vào cuộc, giúp đỡ tận tình của các bộ, ngành, cơ quan quản lý nhà nước, tuyệt đối không vì các lợi ích riêng để cản trở và làm suy yếu DN. Nhà nước cũng cần có cơ chế đặc thù và chính sách hỗ trợ phù hợp để tạo điều kiện cho DNQĐ phát triển hơn nữa. Các DN cũng cần bám sát mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, phương án cơ cấu đã được phê duyệt để chủ động xây dựng các giải pháp phát triển toàn diện DN, nhất là về hệ thống quản trị, ngành nghề cốt lõi, đầu tư trang-thiết bị, công nghệ hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao để nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh của doanh nghiệp sau sắp xếp, tính tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và năng lực cạnh tranh của DN.

Cấu trúc lại và nâng cao hiệu quả DNNN, trong đó có DNQĐ là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp. Vì vậy, ngoài tuyên truyền nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận cao, DNQĐ cần phải luôn phát huy tính chủ động, giữ vững thị trường truyền thống, ngành nghề mũi nhọn trước khi mở rộng thị trường mới, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; bảo đảm cho DN hoạt động đúng pháp luật, có hiệu quả, không bị “đuối” khi nước ta hội nhập sâu rộng với các nền kinh tế trên thế giới...

HOÀNG GIA MINH