QĐND - Anh Ngô Đình Đông, trú tại Hoằng Quý, Hoằng Hóa, Thanh Hóa là con trai của liệt sĩ Ngô Đình Năm gọi điện cho chúng tôi thông tin về ba ngôi mộ mang số 735-736-737 tại Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An.

Trao đổi với anh chúng tôi được biết: Bố anh là Ngô Đình Năm. Sau khóa huấn luyện tại xã Đồng Thịnh, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa, ông Năm được biên chế vào Đơn vị K1, Đại đội 11, Tiểu đoàn 449, Sư đoàn 338 và hành quân vào Nam ngày 15-2-1969. Sau khi hành quân vào đến căn cứ chỉ huy ở xóm Rửa, Lò Gò, Sa Mát, Tây Ninh, ông Năm được biên chế về trung đội 1, Đại đội 3, Tiểu đoàn 860, X5, Quân khu 2 (nay là Quân khu 9). Đơn vị đóng quân tại ấp Sêm Rơm, xã K’rúa, huyện S’vay CB’rúm, tỉnh Vay Riêng (Vương quốc Cam-pu-chia) và thực hiện nhiệm vụ sản xuất vũ khí.

Ngày 20-4-1970, địch mở cuộc càn quét ác liệt đánh vào Đại đội 3, Tiểu đoàn 860, X5 làm 18 đồng chí của xưởng sản xuất vũ khí hy sinh, trong đó Trung đội 1 có 8 đồng chí hy sinh tại chỗ, gồm: Liệt sĩ Ngô Đình Năm; sinh năm 1932, quê quán: Hoằng Quý, Hoằng Hóa, Thanh Hóa; liệt sĩ Lưu Văn Ngẫu, quê quán: Hưng Điền, Tân Hưng, Long An; các liệt sĩ Tiến, Diễn, Lưu quê đều ở miền Bắc; liệt sĩ DânB, quê quán: Đồng Tháp; liệt sĩ Quang, quê quán: Tiền Giang; liệt sĩ Thức, Việt kiều Cam-pu-chia.

Trong số 8 liệt sĩ trên, Đội quy tập hài cốt liệt sĩ K73 (Bộ CHQS tỉnh Long An) đã tổ chức cất bốc được 3 hài cốt an táng cùng một chỗ, đưa về an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Vĩnh Hưng, mang số mộ 735-736-737. Sau khi giám định ADN, liệt sĩ Ngô Đình Năm được xác định ở ngôi mộ số 737; ngôi mộ số 735 được gia đình liệt sĩ Lưu Văn Ngẫu tự nhận và dựng bia. Chỉ còn ngôi mộ số 736 chưa rõ là của liệt sĩ nào.

Qua chuyên mục “Thông tin về mộ liệt sĩ”, ai là thân nhân của các liệt sĩ có tên ở trên liên hệ với anh Ngô Đình Đông để biết thêm chi tiết; điện thoại: 0904.928.759.

Chuyên mục “Thông tin về mộ liệt sĩ” - Báo Quân đội nhân dân, số 7, Phan Đình Phùng, Hà Nội. Điện thoại: 069.554119; 043.7478610. Thư điện tử: chinhtriqdnd@yahoo.com.vn.