Trong đơn cho biết, 13 năm qua cụ đã gửi bảo đảm hàng nghìn tập đơn và năm nào cũng bắt xe ra Hà Nội, đến những cơ quan cao nhất “mà chưa được giải quyết”.
Nhìn tập đơn cụ gửi ngày một dày thêm và cảm nhận nỗi lòng đau xót vì mất con của cụ Long, chúng tôi đã cất công tìm hiểu. Thế nhưng sự thật là đơn cụ Long đã được Ủy ban Các vấn đề về xã hội của Quốc hội có Công văn số 2720/UBVĐXH13 chuyển đến Bộ trưởng Bộ Công an xem xét trả lời. Sau đó, Bộ Công an phối hợp với Tòa án Nhân dân Tối cao điều tra, xác minh và ra thông báo thống nhất với nội dung mà Công an tỉnh Đồng Nai xác định đây là một vụ tai nạn và ra quyết định chấm dứt vụ án, nhưng cụ Long vẫn không chấp nhận sự thật này. Vì luôn tin con mình bị hại chết, nên khi hết tiền gửi đơn, cụ không ngần ngại đi xin. Đã có đoạn video ghi lại việc cụ Long thường đi xin tiền và đã bị cảnh sát khu vực dẫn về trụ sở vì không có giấy tờ tùy thân. Được biết, việc cụ Long đi kiện không được các con (6 trai, 2 gái) và chồng ủng hộ, bởi mọi người đều đồng ý với kết luận của công an rằng đây là một vụ tai nạn giao thông và đã hết lời khuyên can nhưng cụ Long không nghe. Một người con còn đề nghị cơ quan chức năng “can thiệp”, “bắt” cụ ở nhà để con cháu phụng dưỡng. Chính vì vậy, cụ Long “bực mình”, không thèm ở với đứa nào... Đây là "ca" khó, vì làm sao vận động, giải thích để cụ Long hiểu và không gửi đơn khiếu kiện vừa đỡ tốn kém, làm khổ cụ và cũng làm khổ các cơ quan chức năng.
Những lá đơn, tài liệu hầu như tuần nào cụ Nguyễn Thị Long cũng gửi về tòa soạn.
Việc tiếp công dân ở Báo Quân đội nhân dân chưa từng xảy ra tình trạng đối tượng hành hung, la hét, cào cấu cán bộ tiếp dân như đã xảy ra ở Ban Tiếp công dân Trung ương, nhưng cũng không ít lần “căng thẳng” bởi những trường hợp như ông Nguyễn Chính Cam ở Thanh Oai, Hà Nội. Ông Cam đề nghị công nhận mình là thương binh, tỷ lệ thương tật 71%. Lần nào đến phòng tiếp dân ông cũng mặc áo sơ mi trắng, quần âu xách theo ca-táp số rồi trịnh trọng quay mã lấy ra một tập giấy và khẳng định: “Tôi kèm các văn bản này làm chứng lý”. Thế nhưng, lần nào các “chứng lý” ấy cũng chỉ là những phiếu chuyển đơn của những cơ quan mà ông đến gửi đơn. Mặc dù chúng tôi giải thích cho ông rằng, các phiếu chuyển đơn này chỉ ghi “nội dung đơn phản ánh…”, “nhận được đơn của ông với nội dung…” và hướng dẫn ông gửi đến đúng cơ quan cơ quan có thẩm quyền để được giải quyết, chứ không khẳng định ông là thương binh hay yêu cầu cơ quan chính sách địa phương phải giải quyết chế độ thương tật cho ông, nhưng ông không đồng ý… Tiếp tục tìm hiểu sự việc, chúng tôi được biết, trước đây khi còn thuộc tỉnh Hà Tây, đề nghị của ông đã được Bộ CHQS tỉnh có Văn bản 1226/BC ngày 8-12-1997; Thanh tra quốc phòng Bộ CHQS tỉnh đã có Báo cáo kết quả kiểm tra xác minh số 1325/TTr ngày 26-11-1998; Phòng tiếp dân Bộ CHQS tỉnh đã có Thông báo số 01/TD-TB ngày 13-1-1999 khẳng định: “Ông không có thời gian phục vụ tại ngũ, không bị thương trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu nên không thể làm thủ tục đề nghị hưởng chế độ chính sách như thương binh được” và có đăng trả lời này trên báo cách đây vài năm. Gặp ông tại phòng tiếp dân lần nữa, tôi đề nghị: "Sự việc của bác đã được cơ quan chức năng thẩm tra, xác minh, kết luận rõ ràng, không nên kiện như mình chưa từng được giải quyết". Ông cự lại: “Giải quyết không đúng, tôi có quyền kiện lại như mới. Kiện đến bao giờ công nhận tôi là thương binh mới thôi”. Quả nhiên, khoảng 2 tháng sau lại thấy ông đến, vẫn áo sơ mi trắng, quần âu và ca-táp… mạo nhận mình là quân nhân, đi chiến đấu, bị thương, tỷ lệ thương tật đến 71%.
Còn trường hợp ông Phàng Sao Vàng (Phù Yên, Sơn La), một người dân tộc thiểu số cũng là vị khách “đều đặn” mang đơn đến phòng tiếp dân. Có lần người tiếp dân nhìn thấy ông đứng ở chợ lao động tự do trên phố Thụy Khuê (Hà Nội), lần khác lại thấy ông ngủ ngay vỉa hè. Ông là bị cáo trong bản án hình sự phúc thẩm mà TAND tỉnh Sơn La đã tuyên năm 1995 với mức án 5 năm tù giam. Sau thời gian thụ án trở về, ông cùng vợ ra Hà Nội làm thuê kiếm tiền trụ lại Hà Nội và… đi kiện. Cho đến nay, chưa có một quyết định, bản án nào của tòa án có thẩm quyền bác lại hành vi phạm tội của ông tại bản án phúc thẩm, công nhận ông bị oan. Thế nhưng, lần nào đến tòa soạn, ông cũng yêu cầu “bồi thường 25 khoản tổng cộng là 37 tỷ đồng cho những thiệt hại về thu nhập thực tế, sức khỏe, tinh thần trong thời gian chấp hành án oan”. “Căn cứ” mà ông đưa ra chỉ là giấy biên nhận hay phiếu nhận đơn với nội dung đơn ông đề nghị, nhưng lại khoe “tôi có nhiều văn bản của Trung ương và địa phương khẳng định tôi bị oan, được bồi thường”. Tại các bản án hình sự sơ thẩm và phúc thẩm kết tội ông Vàng cho thấy, từ mâu thuẫn khi người hàng xóm vô tình làm chết con tê tê mà chưa bắt đền, thay vì thương lượng, bắt nợ đồ đạc, ông cùng hai người con trai bày mưu lừa người con trai người hàng xóm đến chỗ vắng uy hiếp bằng súng, bắt làm con tin, đồng thời báo cho gia đình họ phải mang của cải theo yêu cầu đến địa điểm để chuộc con về. Bị người hàng xóm tố cáo và bị 2 cấp tòa xét xử với tội danh “bắt cóc con tin nhằm chiếm đoạt tài sản công dân”, mức án ông phải chấp hành là 5 năm tù giam. Với cáo trạng như vậy, không biết ông Vàng lấy cơ sở nào để đòi bồi thường 37 tỷ đồng? Căn cứ vào Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, việc bồi thường chỉ được thực hiện sau khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền công nhận bị oan. Không có quyết định bị oan, được bồi thường mà đòi bồi thường 37 tỷ đồng thì thật vô lý. Giải thích quá nhiều lần, nhưng không biết đến bao giờ ông Vàng mới chịu hiểu, từ bỏ việc kiện, thôi vạ vật làm thuê, trở về quê sống cuộc sống yên bình?
Bài và ảnh: HÀ PHƯƠNG