Nguyên nhân có tình trạng này là vì khi xây dựng những điều luật tiếp theo trong cùng bộ luật hoặc cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn đã không căn cứ vào quy định ở phần chung hay bỏ qua quy định “Hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật”. Đặc biệt đối với Bộ luật Hình sự (BLHS), các chế tài liên quan đến việc áp dụng phải được cân nhắc. Bởi lẽ mọi đối tượng liên quan đến việc áp dụng BLHS đều ảnh hưởng trực tiếp đến quyền nhân thân, quyền sở hữu tài sản của cá nhân và pháp nhân. Do đó khi xây dựng quy phạm mới phải tuân theo tính thống nhất và quy định ở khoản 3 Điều 7 BLHS, song yêu cầu này thực tế chưa được đảm bảo. Dưới đây là những dẫn chứng:

I. Việc thay đổi, vị trí thêm câu chữ

Về nguyên tắc xử lý điểm 3 Điều 3 BLHS năm 1999 cũng như điểm d khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2017 quy định: “Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục”.

Quy định này chỉ có một câu, cũng là khung định hướng để xây dựng một trong các điều khoản về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Điểm 3 Điều 8 BLHS năm 1999 và điểm a khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015 tuy có khác nhau về tên gọi và luật mới bổ sung một số câu chữ nhưng vẫn giữ nội dung quy định: Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm.

Nếu cứ trung thành với nội dung “Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng” thì việc xây dựng các điều tiếp theo quá đơn giản, không phải giải thích nhiều nhưng từ những “Điều khoản cơ bản” khi đưa vào xây dựng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 kế thừa là điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 nhà làm luật lại đổi vị trí câu chữ như sau:

Thuật ngữ “lần đầu phạm tội” thành “phạm tội lần đầu”, bổ sung  thêm chữ  “và” là liên từ, biến chữ “tội” ra chữ “thuộc” để thành quy định “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Tình tiết giảm nhẹ  trách nhiệm hình sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định này trước năm 2017, trên diễn đàn khoa học pháp lý đã có nhiều tranh luận nhưng đều “quên” quy định gốc “Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng”, chỉ tập trung vào nội dung như thế nào là “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Đã có ý kiến cho rằng cụm từ “và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” có thể áp dụng mở rộng đến các điều luật quy định “Phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại khoản 2 ở  các tội Gián điệp, tội Phá hoại cơ sở vật chất kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam... quy  định tại các Điều 110, 114 BLHS năm 2015, sự việc kéo dài nhiều năm, chưa có hồi kết, để có nhận thức chung về tình tiết này, tại điểm 4 Công văn số 01/2017-TANDTC ngày 7-4-2017 của Tòa án nhân dân tối cao giải thích:

“Phạm tội lần đầu” là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu.

Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 03 năm tù;

 - Phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm.”

Ngoài ra, BLHS năm 2015 còn có: khoản 2 Điều 54, sử dụng thuật ngữ  “…  đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức”; điểm a khoản 1 Điều 66 và điểm a khoản 1 Điều 106, có quy định “Phạm tội lần đầu”. Thuật ngữ Phạm tội lần đầu được Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24-4-2018 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao: Hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của BLHS về tha tù trước thời hạn có điều kiện, tại điểm 2 Điều 2 đã giải thích:

“Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Trước đó chưa phạm tội lần nào;

b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự;

c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích.”

So với Công văn số 01/2017-TANDTC ngày 7-4-2017 của TAND tối cao thì phạm vi áp dụng thuật ngữ “Phạm tội lần đầu” quy định tại Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24-4-2018 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao được mở rộng và có phần “thoáng “ hơn.

Ảnh minh họa.

II. Đối với Hiệu lực về trước của Văn bản quy phạm pháp luật

Theo điểm 7 Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nằm trong hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật. Tại Điều 3 Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS về án treo (gọi tắt là Nghị quyết 02) quy định: Những trường hợp không cho hưởng án treo gồm có:

1. Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

2. Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị truy nã.

3. Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo.

4. Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi.

5. Người phạm tội nhiều lần, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi.

6. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm.

Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 6-11-2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 BLHS về án treo (gọi tắt là Nghị quyết số 01): Đối với người phạm tội nhiều lần vẫn được áp dụng cho hưởng án treo nhưng Nghị quyết số 02 đã loại bỏ đây là tình tiết bất lợi cho người phạm tội.

Theo Điều 12 của Nghị quyết 02 thì văn bản này hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2018, như vậy đối với những vụ án người phạm tội được khởi tố điều tra trước thời điểm ban hành văn bản nhưng đến ngày 1-7-2018 mới xét xử thì vẫn bị áp dụng.

Với hướng dẫn trên, chúng tôi thấy có dấu hiệu vi phạm bởi lẽ: Điều 152 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định về Hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật của luật như sau: 

1. Chỉ trong trường hợp thật cần thiết để bảo đảm lợi ích chung của xã hội, thực hiện các quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương mới được quy định hiệu lực trở về trước.

2. Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp sau đây:

a) Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý;

b) Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn….

Để khắc phục tình trạng bất cập  trên trong khi chưa có điều kiện sửa đổi  bổ sung Văn bản quy phạm pháp luật trước mắt, chúng tôi đề xuất:

Đối với điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS  thực hiện theo các văn bản:

Đoạn 1 “phạm tội lần đầu” thực hiện theo điểm 2 Điều 2 Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24--2018 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao: “Hướng dẫn áp dụng các Điều 66, 106 của Bộ Luật hình sự 2015 về tha tù trước thời hạn có điều kiện.

Đoạn 2 “và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” thực hiện theo điểm 4  Công văn số 01/2017-TANDTC ngày 7-4-2017 của TAND tối cao.

Bổ sung về thời hiệu thi hành Nghị quyết số 02/2018 NQ- HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng thẩm phán TAND theo hướng: Những điểm quy định trong Nghị quyết gây bất lợi cho người phạm tội thì chỉ được áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 00 giờ ngày 1-7-2018.

Luật gia NGUYỄN THÀNH MINH, Chi hội luật gia- Đoàn Luật sư tỉnh Tuyên Quang (Số 253 đường Trần Phú, phường Phan Thiết, thành phố Tuyên Quang)