Đầu tháng 3, GS Shigeyaki Ozaki, Trưởng khoa Phẫu thuật tim mạch, Bệnh viện Đại học Toho, Tô-ki-ô, Nhật Bản và GS, TS Lê Ngọc Thành, Giám đốc Bệnh viện E cùng các bác sĩ Trung tâm Tim mạch (Bệnh viện E) tiến hành khám lại cho bệnh nhân B.V.N (35 tuổi, ở Hòa Bình), bệnh nhân đầu tiên của Việt Nam được phẫu thuật tái tạo van động mạch chủ bằng màng tim tự thân năm 2013. Cách đây 4 năm, GS Ozaki cùng các bác sĩ Trung tâm Tim mạch tiến hành mổ kỹ thuật tái tạo van động mạch chủ bằng màng tim tự thân cho bệnh nhân B.V.N bị hở van động mạch chủ do tình trạng van động mạch chủ không đóng kín ở thì tâm thu, dẫn đến máu bị dồn ngược trở lại từ động mạch chủ về tim, làm tăng gánh nặng cho tâm thất trái, lâu dài dẫn đến suy tim. Đây là lần đầu tiên kỹ thuật mổ này được tiến hành ở Việt Nam do các bác sĩ Trung tâm Tim mạch (Bệnh viện E) thực hiện dưới sự hỗ trợ của GS Ozaki. Tái khám sau 4 năm được phẫu thuật, bệnh nhân B.V.N cho biết, sau khi phẫu thuật, anh hoàn toàn khỏe mạnh, thậm chí có thể chơi cầu lông hằng ngày.
Bệnh nhân B.V.N được GS Ozaki (người đứng) tái khám sau 4 năm phẫu thuật.
GS, TS Lê Ngọc Thành cho biết, có rất nhiều nguyên nhân gây ra hở van động mạch chủ. Bệnh hở van động mạch chủ mãn tính thường tiến triển âm thầm trong nhiều năm mà không có biểu hiện gì. Bởi trong giai đoạn này, tim vẫn còn cơ chế tự bù trừ để chống lại các rối loạn. Chỉ đến khi chức năng thất trái bị suy giảm, tâm thất trái dãn nhiều, tần suất tống máu giảm thì người bệnh ban đầu sẽ mệt mỏi, khó thở khi gắng sức, sau đó dần xuất hiện khó thở khi nằm, cơn khó thở kịch phát về đêm, cảm giác đau thắt ngực và cuối cùng là các dấu hiệu của suy tim toàn bộ. Trong trường hợp hở van động mạch chủ nặng và đã có triệu chứng, người bệnh dễ bị đột tử do các rối loạn nhịp tim liên quan đến phì đại và rối loạn chức năng thất trái. Bệnh nhân hở van động mạch chủ vừa hoặc nặng, được điều trị nội khoa thường có tỷ lệ sống sau 5 năm là 75%, sau 10 năm là 50%. Tỷ lệ này sẽ tăng nếu họ được điều trị tích cực bằng thuốc, hay được chỉ định sớm thời điểm phẫu thuật, hoặc cải tiến kỹ thuật mổ. Mặc dù điều trị bằng thuốc có thể giúp cải thiện phần nào cuộc sống của bệnh nhân, nhưng đó chỉ là giải pháp để trì hoãn thời gian mổ.
GS, TS Lê Ngọc Thành cho biết, trên thế giới phần lớn vẫn tiến hành thay van tim nhân tạo bằng van sinh học và cơ học. Vật liệu van nhân tạo này có tuổi thọ 15-20 năm, trong trường hợp van bị hư hỏng, người bệnh cần được thay thế bằng chiếc van mới. GS Ozaki đã nghiên cứu và chế tạo ra dụng cụ đo được van động mạch chủ theo hướng cải tạo lại. Ông dùng chính màng tim của bệnh nhân để tạo thành van tim. Phương pháp này được cả thế giới biết đến, gọi là phương pháp Ozaki (gọi theo tên của GS Ozaki). GS Ozaki đã tiến hành mổ thành công hơn 1.000 trường hợp, chủ yếu từ 60 đến 80 tuổi bằng kỹ thuật này, cho đến thời điểm hiện tại chưa có bệnh nhân nào phải mổ lại.
Ưu điểm của phương pháp này là giải quyết triệt để vấn đề huyết động học ở bệnh nhân mắc bệnh lý tim mạch. Bệnh nhân không dùng thuốc chống đông sau mổ, hạn chế được những biến chứng khi dùng thuốc chống đông. Do các bác sĩ dùng chính màng tim tự thân của bệnh nhân thay van động mạch chủ nên sẽ hạn chế được nguy cơ nhiễm trùng cho bệnh nhân. Đặc biệt, khi áp dụng phương pháp này, chi phí điều trị cho bệnh nhân mắc bệnh lý tim mạch có chỉ định thay van động mạch chủ sẽ giảm, nhất là khi bảo hiểm y tế chưa chi trả. Chi phí thay van nhân tạo mất khoảng 40 triệu đồng, nhưng áp dụng phương pháp này, bệnh nhân không mất chi phí mua van tim nhân tạo.
Bài và ảnh: AN AN