Năm 1923, Hà Huy Tập tốt nghiệp hạng ưu Trường Quốc học Huế, sau đó làm giáo viên tại Nha Trang, Khánh Hòa và tại Vinh, Nghệ An…; sớm có tư tưởng yêu nước. Trong giai đoạn 1924-1927, qua sách, báo cách mạng của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian Người mở lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu (Trung Quốc), Hà Huy Tập đã tiếp thu Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và giác ngộ cách mạng từ đây. Trong bản “Tiểu sử tự ghi”, Hà Huy Tập viết: “Năm ấy (1926 - người viết), tôi đã đọc những tờ báo, những cuốn sách viết về chủ nghĩa cộng sản. Lúc đó, một xu hướng mới bắt đầu có trong đời tôi - xu hướng chủ nghĩa cộng sản. Khi đó, tôi hiểu những động lực chính của cách mạng là những ai. Từ ngày đó, tôi có thể thấy rõ vai trò cách mạng của giai cấp vô sản, và đúng vậy, chính vì nó mà tôi lao vào đời sống chính trị”.

Mùa thu năm 1926, Hà Huy Tập gia nhập Hội Phục Việt - một tổ chức yêu nước hoạt động bí mật ở Vinh và một số địa phương ở Trung Kỳ. Tại Vinh, Hà Huy Tập lao vào hoạt động trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Tháng 3-1927, đồng chí rời Vinh, vào hoạt động tại Sài Gòn, vừa dạy học, vừa hoạt động bí mật; thâm nhập vào các xóm nghèo, xóm thợ và trong hàng ngũ trí thức Sài Gòn để gây dựng các cơ sở cách mạng và đã tổ chức thành công nhiều cuộc bãi công của công nhân, bãi khóa của học sinh.

Đồng chí Hà Huy Tập. 

Cuối tháng 12-1928, Hà Huy Tập cùng một số đồng chí khác được cử sang Quảng Châu, Trung Quốc bàn việc hợp nhất Tân Việt cách mạng Đảng với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; tiếp đó đồng chí ở lại Quảng Châu để học tập và hoạt động. Từ đây, đồng chí đi Thượng Hải và tiếp đó sang Mát-xcơ-va (Liên Xô); đến tháng 7-1929 thì vào học tại Trường Đại học Phương Đông, nơi đào tạo cán bộ của Quốc tế Cộng sản. Trong thời gian Hà Huy Tập học tập tại Trường Đại học Phương Đông, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào đầu năm 1930 và đến tháng 10-1930, đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Tuy không tham gia vào quá trình thành lập Đảng, nhưng đồng chí luôn theo dõi sát tình hình và có những đánh giá bước đầu về sự kiện quan trọng này.

Sau 3 năm học tập, tháng 4-1932, Hà Huy Tập tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông và rời Liên Xô trở về Việt Nam. Trên đường về, khi đến Pháp, cảnh sát Pháp nghi ngờ và buộc anh phải trở lại Liên Xô. Trong thời gian này, Hà Huy Tập đã viết cuốn “Sơ thảo Lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương” bằng tiếng Pháp, với bút danh Hồng Thế Công, mang tính tổng kết ba năm hoạt động của Đảng.

Tháng 4-1934, Hà Huy Tập về Ma Cao và từ Ma Cao đi Thượng Hải, Trung Quốc; tại đây, đồng chí gặp Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Nọn (Tú Hưu) đang trên đường chuẩn bị đi Liên Xô dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, tổ chức tại Mát-xcơ-va. Tại Trung Quốc, đồng chí Hà Huy Tập tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương. Công việc đầu tiên mà đồng chí thực hiện ở ngoài nước là cùng với đồng chí Phùng Chí Kiên dự thảo các văn kiện để chuẩn bị họp Đại hội lần thứ nhất của Đảng (gọi tắt là Đại hội I của Đảng). Sau một thời gian chuẩn bị về nội dung, nhân sự và tổ chức, Đại hội I của Đảng họp tại Ma Cao từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935, dưới sự chủ trì của đồng chí Hà Huy Tập. Đại hội đã thảo luận và thông qua các văn kiện, vạch đường lối cho cách mạng Việt Nam. Tại đại hội này, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương; đồng chí Hà Huy Tập làm Thư ký Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ngày 26-7-1936 tại Thượng Hải, Trung Quốc có ý nghĩa bước ngoặt đối với đồng chí Hà Huy Tập. Nghị quyết của Hội nghị đã bổ khuyết cho các nghị quyết của Đại hội I của Đảng và thật sự mở ra cho cách mạng Đông Dương một thời kỳ phát triển mới. Hội nghị đã bầu đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau đó, đồng chí quyết định rời Trung Quốc về nước hoạt động và đã góp phần quan trọng vào việc củng cố và phát triển các tổ chức của Đảng. Từ Hội nghị lần thứ 3 (khóa I) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 3-1938), đồng chí thôi giữ chức Tổng Bí thư, nhưng vẫn tham gia Thường vụ Trung ương. Đầu tháng 5-1938, do bị chỉ điểm, mật thám Pháp đã bắt Hà Huy Tập khi đồng chí đang hoạt động ở Sài Gòn. Ngày 22-10-1940, Tòa án thực dân tại Sài Gòn kết án đồng chí 5 năm tù, đồng thời "tước quyền công dân và chính trị, 10 năm không được sống ở các vùng có âm mưu lật đổ".

Sau thời gian bị tra tấn, cùm kẹp, ngày 28-8-1941, tại Hóc Môn, Gia Định, thực dân Pháp đã đưa các đồng chí: Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai... ra xử bắn. Hà Huy Tập và các đồng chí lãnh đạo cách mạng Đông Dương đã anh dũng hy sinh.

Đồng chí Hà Huy Tập ra đi ở tuổi 35, trải qua gần 16 năm hoạt động cách mạng (trong đó gần 2 năm giữ cương vị Tổng Bí thư của Đảng), khi đang tràn đầy trí tuệ và nhiệt huyết cách mạng. Trước họng súng quân thù, đồng chí vẫn bình tĩnh hô vang: "Cách mạng muôn năm!". Khí phách nhà cách mạng Hà Huy Tập chứa đựng trong lời hô đó. Với cách mạng, lúc nào đồng chí cũng tận tâm và tin tưởng, đồng thời luôn thấu hiểu rằng, muốn thắng lợi, cách mạng đòi hỏi người chiến sĩ cộng sản phải sẵn sàng chiến đấu, hy sinh.

Bốn năm sau kể từ khi Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ và các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam ngã xuống, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và thắng lợi, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hà Huy Tập đã có những cống hiến to lớn. Đồng chí là một nhà cách mạng tài năng của Đảng, không ngừng chăm lo xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đồng thời là một nhà lý luận sắc sảo của Đảng Cộng sản Đông Dương, một cây bút chiến đấu trên mặt trận tư tưởng và chính trị của cách mạng Việt Nam, tổ chức và xuất bản sách báo, tạp chí của Đảng. Lý luận của Hà Huy Tập thể hiện ở khả năng tổng kết phong trào cộng sản Đông Dương và tổng kết lý luận của Đảng. Đồng chí đặc biệt nhấn mạnh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Đông Dương, phong trào cách mạng Việt Nam và sự cần thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất ở Việt Nam, một đảng tiên phong cho những người lao động bị áp bức ở Đông Dương và để tập trung mọi lực lượng cách mạng nhằm tranh đấu cho tự do, độc lập của xứ sở, cho ruộng đất và cho việc cải thiện đời sống của nhân dân lao động.

Lý luận của đồng chí Hà Huy Tập nhấn mạnh đến tính thống nhất của phong trào cộng sản Đông Dương, bởi nếu bị chia rẽ, bè phái bởi chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa cải lương, thì Đảng sẽ phát sinh mâu thuẫn. Đồng chí nhận định rằng, thiếu một Đảng Cộng sản thống nhất trong lúc phong trào quần chúng của công nhân và nông dân càng ngày càng phát triển là một nguy cơ cực kỳ trầm trọng cho tương lai trước mắt của cách mạng Đông Dương. Đồng chí cũng nêu những điều kiện để thống nhất và phát triển phong trào cộng sản và phong trào cách mạng ở Đông Dương là phải cải thiện thành phần xã hội của Đảng Cộng sản ở Đông Dương; phải là một Đảng có tính chất quần chúng, nhất thiết Đảng đó phải cầm đầu phong trào cách mạng; Đảng phải có cương lĩnh chính trị phù hợp.

Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội II của Đảng (năm 1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ, và trăm nghìn đồng chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết. Các đồng chí đó đã tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào lực lượng vĩ đại và tương lai vẻ vang của giai cấp và của dân tộc. Các đồng chí ấy đã vui vẻ hy sinh hết thảy, hy sinh cả tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc. Các đồng chí ấy đã đem xương máu mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay".

Về phương pháp nghiên cứu lý luận, đồng chí Hà Huy Tập bao giờ cũng gắn với thực tiễn cách mạng Đông Dương, đi thẳng vào thực tiễn, mổ xẻ thực tiễn để qua đó mà tổng kết phong trào cộng sản và phong trào cách mạng ở Đông Dương. Với đồng chí, phương pháp chỉ đúng khi nó được gắn chặt với lý luận, với đời sống thực tiễn và nó chỉ có một nhận thức chung nhất là phép biện chứng duy vật. Cơ sở khách quan của phương pháp biện chứng là những quy luật phát triển của cách mạng, nhằm cải tạo thế giới, cải tạo xã hội từ trạng thái áp bức và bất công sang trạng thái mọi người dân đều có quyền làm chủ xã hội và công bằng xã hội. Đó là phương pháp đúng đắn nhất trong nghiên cứu lý luận cách mạng.

Hà Huy Tập là một trong những nhà lý luận xuất sắc của Đảng ta, thể hiện trong các văn kiện do đồng chí soạn thảo, trong các bài viết, bài bút chiến, nhất là trong cuốn sách "Sơ thảo Lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương". Ngòi bút sắc sảo của đồng chí mang tính luận chiến cao, thực sự là vũ khí chiến đấu; nhiều khi tấn công trực diện, làm đối phương lúng túng.

Thời gian từ khi bắt đầu hoạt động cách mạng cho đến lúc hy sinh đối với đồng chí Hà Huy Tập chỉ diễn ra trong gần 16 năm. Nhờ xông xáo, tích cực học tập nghiên cứu lý luận, hoạt động cách mạng, Hà Huy Tập đã mau chóng trưởng thành; từ nhà yêu nước trở thành nhà cách mạng, từ người cộng sản trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí là tấm gương của người chiến sĩ cộng sản anh dũng, kiên trung, bất khuất, chí công vô tư; đã chiến đấu, cống hiến, hy sinh trọn đời vì nước, vì dân. Cuộc đời hoạt động cách mạng oanh liệt của đồng chí tuy ngắn ngủi, nhưng những đóng góp của đồng chí cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta là rất quan trọng và to lớn. Tinh thần và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của đồng chí Hà Huy Tập sống mãi cùng với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân ta.

PGS, TS ĐÀM ĐỨC VƯỢNG (Nguyên Phó viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng)