Việt Nam đã làm chủ nhiều kỹ thuật khó trong ghép tạng

Phát biểu khai mạc hội nghị, Thiếu tướng, GS, TS Đỗ Quyết nhấn mạnh, ghép tạng là một trong những thành tựu lớn nhất của y học. Đến nay, ghép tạng đã trở thành một biện pháp điều trị rộng rãi và có hiệu quả đối với với nhiều bệnh lý, cứu sống và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh.

Ca ghép tạng đầu tiên trên thế giới được thực hiện vào năm 1952. Đó là trường hợp của một bà mẹ tình nguyện hiến một quả thận cho con trai không may bị tai nạn và bị giập thận. Đến nay, kỹ thuật ghép tạng trên thế giới đã có những bước phát triển mạnh mẽ, thời gian sống sau ghép của bệnh nhân đã tăng đáng kể (hơn 30 năm với ghép thận, hơn 25 năm với ghép gan, hơn 20 năm với ghép tim). Chất lượng cuộc sống sau ghép tạng đã được cải thiện rõ rệt và có thể hòa nhập với cộng đồng trong lao động, học tập, kết hôn và sinh con...     

leftcenterrightdel
Thiếu tướng, GS, TS Đỗ Quyết phát biểu tại hội nghị. 

 

Tại Việt Nam, lịch sử ngành ghép tạng được đánh dấu bằng sự kiện ca ghép thận cho Thiếu tá Vũ Mạnh Đ. (40 tuổi) vào ngày 4-6-1992 tại Bệnh viện Quân y 103 (Học viện Quân y) từ người cho là em trai ruột Vũ Mạnh T. 28 tuổi. Thành công của ca ghép tạng đầu tiên này đã viết lên những trang sử mới cho nền y học nước nhà, đánh dấu mốc son chói lọi trên bản đồ ghép tạng.

Đến năm 2004, bé gái Nguyễn Thị D (10 tuổi, ở Nam Định) đã trở thành bệnh nhi đầu tiên được ghép gan tại Bệnh viện Quân y 103 (Học viện Quân y) với người cho gan là bố đẻ (anh Nguyễn Quốc Ph, 31 tuổi). Đến nay sức khỏe và chức năng gan ghép của cháu Nguyễn Thị D vẫn ổn định. Nguyễn Thị D đã tốt nghiệp khóa đào tạo y tá tại Trường Trung cấp Quân y 1, bố cháu sức khỏe tốt.

Một bước ngoặt rất quan trọng khác trong lịch sử ghép tạng Việt Nam, ca ghép tim đầu tiên của Việt Nam cũng được tiến hành thành công tại Bệnh viện Quân y 103 vào ngày 17-6-2010. Bệnh nhân được ghép tim là anh Bùi Văn N. 48 tuổi bị bệnh cơ tim thể giãn, suy tim độ 4. Người cho tim là bệnh nhân chết não. Bệnh nhân được ghép tim đúng vị trí theo phương pháp nối 2 tâm nhĩ.

Năm 2014, một lần nữa, Bệnh viện Quân y 103 (Học viện Quân y) lại khiến các đồng nghiệp trên thế giới và trong nước khâm phục bởi đã thực hiện thành công ca ghép tụy đầu tiên cho bệnh nhân Phạm Thái H. 43 tuổi, bị đái tháo đường, suy thận độ 2. Đây cũng là ca ghép đa tạng (hai tạng trên một người bệnh) đầu tiên. Tạng được hiến từ một người chết não vì tai nạn giao thông.

Ngày 27-2-2017, một lần nữa Học viện Quân y lại đánh dấu mốc son trong lịch sử ghép tạng Việt Nam, đó là tiến hành ghép thành công ca ghép phổi trên người từ người cho sống đầu tiên tại Việt Nam. Bệnh nhân được ghép phổi là cháu Ly Chương B., 7 tuổi, bị bệnh giãn phế quản lan tỏa bẩm sinh biến chứng suy hô hấp, tâm thế mạn, suy dinh dưỡng độ 3. Người cho phổi là bố đẻ và bác ruột của bệnh nhân. Ngay sau khi phẫu thuật, phổi ghép hoạt động, 2 thùy phổi đã nở ra gần hoàn toàn theo kích thước lồng ngực của bệnh nhân. Sau 3 tháng ghép phổi, bệnh nhân đã phục hồi mọi khả năng vận động và đang điều trị quản lý và kiểm soát tiếp theo sau ghép. Sự thành công bước đầu của ca ghép phổi từ người cho sống đã mở ra triển vọng cho ghép phổi tại Việt Nam trong những năm tiếp theo.

leftcenterrightdel
Các bác sĩ Bệnh viện Quân y 103 (Học viện Quân y) thực hiện ghép tạng. 

 

Trao đổi với chúng tôi, Thiếu tướng, GS, TS Đỗ Quyết cho biết, để thực hiện được những ca ghép trên, Học viện Quân y thường xuyên làm tốt công tác xây dựng mô hình tổ chức, phát triển đội ngũ có trình độ chuyên sâu, tăng cường hợp tác với các trung tâm ghép tạng trong và ngoài nước; thường xuyên có danh sách theo dõi hằng trăm bệnh nhân chờ ghép thận, ghép gan, ghép tim, phép phổi… Ngoài ra, Học viện Quân y cũng làm tốt công tác tìm kiếm, tuyển chọn nguồn tạng từ người cho sống và người cho chết não.

Số người hiến tạng cho y học vẫn còn hạn chế

Để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động hiến ghép tạng, năm 2006, Quốc hội đã thông qua Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác. Nhưng do ảnh hưởng của tâm lý, tôn giáo và tín ngưỡng nên số người chết não hiến tạng còn thấp. Người phương Đông, nhất là người Việt Nam từ xưa đến nay vẫn thường quan niệm: “Sống để đức, chết phải toàn thây”, cùng sự thiếu hiểu biết về hiến-ghép tạng và vì nhiều lý do khác nhau người thân trong gia đình nạn nhân thường không đồng ý hiến tạng. Trong khi đó, nhu cầu ghép tạng ở trong nước là rất lớn. Hiện nay, nước ta có hơn 10.000 bệnh nhân phải lọc máu chu kỳ vì suy thận mãn, hơn 20.000 người tử vong vì viêm gan B, C và ung thư gan mỗi năm.

Theo GS, TS Phạm Gia Khánh, mặc dù chi phí cho ghép tạng ở Việt Nam ở mức thấp nhất so với các nước trên thế giới (ít hơn từ 1/3 đến ½ lần), nhưng chi phí cho một ca ghép tạng vẫn còn cao (300 triệu cho 1 ca ghép thận, 1 tỷ cho một ca ghép tim, 1,5 tỷ cho một ca ghép gan) trong khi thu nhập của người dân còn thấp. Đặc biệt, phần lớn những người có nhu cầu ghép tạng lại là người nghèo. Vì vậy, cần tăng kinh phí hỗ trợ của bảo hiểm y tế cho ghép tạng và thành lập quỹ hỗ trợ ghép tạng từ các nhà hảo tâm và nguồn khác.

Để khắc phục tình trạng trên, GS,TS Trịnh Hồng Sơn, Giám đốc Trung tâm Điều phối hiến ghép tạng quốc gia cho biết, quan trọng nhất vẫn là phải đẩy mạnh tuyên truyền, vận động. “Nếu ai đó quyết định hiến tặng mô, tạng, họ sẽ mang lại cơ hội cứu sống cho biết bao người bệnh. Khi một người ra đi với ý nghĩa hiến tặng mô tạng cho đời thì người đó sẽ sống mãi trong niềm yêu thương, tôn kính của người đời”, ông Trịnh Hồng Sơn nói. 

Hàng nghìn bệnh nhân hồi sinh nhờ được ghép tạng       

Phát biểu tại hội nghị, Thiếu tướng, GS, TS Đỗ Quyết cho biết, sau 25 năm kể từ ngày tiến hành ca ghép tạng đầu tiên thành công tại Bệnh viện Quân y 103 (Học viện Quân y), đến nay chuyên ngành ghép tạng của Việt Nam đã phát triển vượt bậc (hơn 1.500 ca ghép tạng được thực hiện thành công) và hiện Việt Nam đã theo kịp với trình độ ghép tạng của thế giới. Sau 25 năm, nước ta đã có 18 cơ sở (trong đó có cả các bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện ngành) có đủ điều kiện để tiến hành ghép tạng. “Chuyên ngành ghép tạng của Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Thành công của ghép tạng là nhờ sự nỗ lực cố gắng của các nhà khoa học, đội ngũ y, bác sĩ của các bệnh viện, các cơ sở y tế, quyết tâm cao của ngành y tế, sự nghiên cứu, học tập và chuẩn bị chu đáo, có sự đoàn kết hợp tác khoa học giữa các chuyên ngành và các cơ sở y tế trong nước, sự kết hợp quân dân y và sự hợp tác quốc tế”, Thiếu tướng, GS, TS Đỗ Quyết nhấn mạnh.

Theo các thống kê chưa đầy đủ, hiện nay cả nước có khoảng 6.000 người suy thận mạn tính cần được ghép thận, 300.000 người bị mù lòa vì các bệnh lý giác mạc cần được ghép giác mạc... Còn theo số liệu điều tra sơ bộ mới được thực hiện tại 5 bệnh viện lớn ở Hà Nội với 4.143 người bệnh gan thì có đến 1.353 người được chỉ định ghép gan (chiếm 33,66%). Như vậy, nhu cầu được ghép tạng là quá lớn, trong khi đó số người cho, hiến tạng ở nước ta quá hiếm hoi. Đa phần các tạng được ghép đều là những ca ghép tạng cùng huyết thống, do chính anh, chị, em... trong gia đình người bệnh hiến tặng.       

Tại hội nghị, GS, TS Phạm Gia Khánh, Chủ tịch Hội Ghép tạng Việt Nam khẳng định: Sau 25 ghép tạng, đến nay ghép tạng Việt Nam đã theo kịp thế giới. Hiện Việt Nam đã thực hiện được hầu hết các kỹ thuật về ghép tạng mà thế giới đang thực hiện. Kết quả ghép tạng 25 năm qua đã mang lại cuộc sống cho hàng nghìn bệnh nhân và thắp sáng hy vọng cho hàng vạn người đang bị bệnh hiểm nghèo giai đoạn cuối. “Với truyền thống hào hùng của ghép tạng, chắc chắn ghép tạng và y học Việt Nam sẽ phát triển mạnh trong tương lai”, GS, TS Phạm Gia Khánh nhấn mạnh.

Để cho chuyên ngành ghép tạng của Việt Nam tiếp tục phát triển, mang lại cơ hội kéo dài và nâng cao chất lượng cuộc sống cho các bệnh nhân suy tạng, Thiếu tướng, GS, TS Đỗ Quyết đề nghị các cấp, các ngành cần tiếp tục đầu tư, đẩy mạnh các loại hình ghép tạng truyền thống, tăng cường ứng dụng công nghệ mới, nâng cao chất lượng và kết quả ghép tạng; xây dựng quỹ hỗ trợ ghép tạng, duy trì, phát huy vai trò của Hội Ghép tạng để trao đổi, học tập, nâng cao trình độ của chuyên ngành…

Bài và ảnh: VƯƠNG THÚY - NGỌC ÁNH