Luật gồm gồm 12 chương, 108 Điều, tăng 11 Điều so với Dự thảo Luật Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 3, quy định về quy hoạch lâm nghiệp; quản lý rừng; bảo vệ rừng; sử dụng rừng; chế biến thương mại, lâm sản; quyền và nghĩa vụ của chủ rừng; định giá rừng, đầu tư, tài chính trong lâm nghiệp; khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế về lâm nghiệp; quản lý nhà nước về lâm nghiệp và kiểm lâm.

Luật Lâm nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1- 2019. Luật Bảo vệ và phát triển rừng số 29/2004/QH11 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.

Về chính sách của Nhà nước về lâm nghiệp, Luật quy định: Nhà nước có chính sách đầu tư và huy động nguồn lực xã hội cho hoạt động lâm nghiệp gắn liền, đồng bộ với chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Nhà nước bảo đảm nguồn lực cho hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư hoạt động lâm nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước tổ chức, hỗ trợ quản lý, bảo vệ và phát triển rừng sản xuất; giống cây trồng lâm nghiệp, phục hồi rừng, trồng rừng mới; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ mới; đào tạo nguồn nhân lực; thực hiện dịch vụ môi trường rừng; trồng rừng gỗ lớn, chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang gỗ lớn; kết cấu hạ tầng; quản lý rừng bền vững; chế biến và thương mại lâm sản; hợp tác quốc tế về lâm nghiệp. Ngoài ra, Nhà nước khuyến khích sản xuất lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp; sản xuất lâm nghiệp hữu cơ; bảo hiểm rừng sản xuất là rừng trồng. Nhà nước bảo đảm cho đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư sinh sống phụ thuộc vào rừng được giao rừng gắn với giao đất để sản xuất lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp; được hợp tác, liên kết bảo vệ, phát triển rừng với chủ rừng và được chia sẻ lợi ích từ rừng; được thực hành văn hóa, tín ngưỡng gắn với rừng theo quy định của Chính phủ.

leftcenterrightdel
 Quốc hội thông qua dự án Luật Lâm nghiệp với 87,78% đại biểu tán thành.

Trước khi biểu quyết thông qua dự thảo Luật, các đại biểu Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Luật Lâm nghiệp.

Về dịch vụ môi trường rừng (mục 4 Chương VI), những hoạt động lâm nghiệp được sử dụng ngân sách Nhà nước (Điều 93), Quỹ bảo vệ và phát triển rừng (Điều 95), có ý kiến đề nghị xem xét tính khả thi và sự tương xứng giữa quyền, nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng với bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng; làm rõ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong điều tiết tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng, trách nhiệm xử lý trong trường hợp bên cung ứng dịch vụ không bảo đảm quyền cho bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng; trách nhiệm của bên nhận nhiệm vụ ủy thác chi trả dịch vụ môi trường rừng.

Về vấn đề này, Chủ nhiệm Phan Xuân Dũng nêu rõ, việc chi trả dịch vụ môi trường rừng đã được quy định trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng (2004), Nghị định số 99/2010/NĐ-CP và thực hiện ổn định hơn 7 năm qua ở các địa phương có rừng. Hiện tại, nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng hằng năm là trên 1.200 tỷ đồng, được chi trả cho hơn 500.000 chủ rừng, chủ yếu là hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư để quản lý, bảo vệ trên 5,7 triệu ha rừng.

Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, để bảo đảm hợp lý giữa quyền và nghĩa vụ của các bên, dự thảo Luật đã quy định rõ quyền, nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng (Điều 64); quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng (Điều 65); đồng thời quy định những nội dung cơ bản trong quản lý chi trả dịch vụ môi trường rừng như: Loại dịch vụ môi trường rừng (Điều 61), nguyên tắc chi trả (Điều 62), đối tượng, hình thức chi trả và quản lý sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng (Điều 63), cơ quan nhận ủy thác để chi trả dịch vụ môi trường rừng (khoản 2 Điều 64) đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết về quản lý sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng, trong đó có quy định về cơ quan có thẩm quyền quản lý, điều tiết tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng; trách nhiệm của bên nhận nhiệm vụ ủy thác chi trả dịch vụ môi trường rừng để phù hợp với từng cấp quản lý.

Về thẩm quyền giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng, thu hồi rừng (Điều 23), một số ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị bỏ cụm từ "ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi rừng" tại khoản 3 Điều 26 của Dự thảo Luật đã trình Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, ý kiến đại biểu Quốc hội là hợp lý. Tuy nhiên, việc thu hồi rừng phải gắn với thu hồi đất, trong khi Luật Đất đai (khoản 3 Điều 66) quy định việc thu hồi đất trong trường hợp có cả đối tượng thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và của Ủy ban nhân dân cấp huyện thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi để giảm bớt thủ tục hành chính. Vì vậy, để thẩm quyền này đồng bộ với quy định của Luật Đất đai khi Nhà nước thu hồi rừng, đề nghị Quốc hội cho thể hiện quy định này như Dự thảo Luật.

Xung quanh ý kiến đề nghị cần cân nhắc không nên quy định cụ thể về chi ngân sách Nhà nước đối với hoạt động lâm nghiệp để tránh xung đột với Luật Ngân sách Nhà nước và pháp luật có liên quan, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu và quy định thể hiện trong dự thảo Luật như sau: Căn cứ vào yêu cầu quản lý, phát triển lâm nghiệp và khả năng của ngân sách Nhà nước trong từng thời kỳ, Chính phủ quy định những hoạt động được sử dụng ngân sách Nhà nước. Việc lập, chấp hành, kiểm toán, quyết toán và giám sát ngân sách Nhà nước cho lâm nghiệp được thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách Nhà nước.

THẢO NGUYỄN