Theo đó, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII và Nghị quyết số 142/2016/QH13 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020, Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021, ngay từ đầu nhiệm kỳ, với tinh thần vào cuộc mạnh mẽ, kiên trì thực hiện các mục tiêu đề ra trên tất cả các lĩnh vực được giao, ngành LĐ-TB&XH đã xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể và tổ chức triển khai thực hiện với phương châm “Đoàn kết, kỷ cương, sáng tạo, hiệu quả”. Kết quả, 10 thành tựu nổi bật 5 năm qua được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực.

1. Tạo dấu ấn đặc biệt trong công tác xây dựng thể chế

Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2019, phối hợp trình Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương (khu vực doanh nghiệp) và Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; trình Quốc hội thông qua 3 Công ước quốc tế và Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Ưu đãi người có công (sửa đổi)Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương và Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.

Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế phải gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, trong nhiệm kỳ 2016-2021, Bộ LĐ-TB&XH đã tập trung thực hiện tốt đột phá chiến lược về xây dựng và hoàn thiện thể chế. Cụ thể, đã tham mưu, trình Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương (phần khu vực doanh nghiệp) và Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội. Đây là những quyết sách quan trọng, đặt nền tảng thể chế về lĩnh vực lao động-việc làm cho giai đoạn lâu dài về sau.

Bộ đã trình Quốc hội ban hành 3 luật, bao gồm: Luật Trẻ em năm 2016, Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) năm 2020; trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh ưu đãi người có công (sửa đổi); trình Chính phủ ban hành 40 Nghị định, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều Quyết định; ban hành theo thẩm quyền 119 Thông tư và trình thông qua 03 Công ước quốc tế. 

2. Thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp; Gắn kết giáo dục nghề nghiệp-thị trường lao động-doanh nghiệp

Giai đoạn 2016-2020, Bộ đã tập trung chỉ đạo, hướng dẫn triển khai Luật Giáo dục nghề nghiệp, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4-11-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Diễn đàn quốc gia “Nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam” . Ảnh: Cổng Thông tin điện tử Bộ LĐ-TB&XH. 

Đặc biệt, việc Bộ tham mưu Chính phủ thống nhất một đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp về Bộ LĐ-TB&XH, tiếp nhận chức năng quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp đối với các trường cao đẳng, trường trung cấp từ ngành giáo dục và đào tạo; hoàn thiện toàn bộ thể chế về lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp; tổ chức thành công nhiều hội nghị triển khai công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm trong và ngoài nước… đã giúp nhận thức về học nghề, phát triển giáo dục nghề nghiệp trong toàn xã hội và người dân đã có chuyển biến mạnh mẽ; vị thế, vai trò của hệ thống giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân được nâng cao.

3. Tạo nhiều đột phá trong lĩnh vực người có công

Giải quyết căn bản hồ sơ tồn đọng; lần đầu tiên tổ chức gặp mặt, tuyên dương 500 thương binh nặng, 300 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng.

Với quan điểm “tất cả người có công đều phải được hưởng chính sách”, trong những năm qua, tham mưu Ban Bí thư ban hành và tiếp tục triển khai có hiệu quả Chỉ thị số 14-CT/TW ngày 14-7-2017 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người có công với cách mạng, trong những năm qua, Bộ đã tập trung chỉ đạo, triển khai một số nhiệm vụ mang tính đột phá, thực hiện chính sách ưu đãi người có công.

Nhìn chung, chế độ ưu đãi người có công đã được xây dựng và thực hiện tương đối toàn diện với nhiều điểm đột phá, ngoài trợ cấp còn có chế độ chăm sóc sức khỏe, cải thiện nhà ở, ưu đãi trong y tế, giáo dục đào tạo, sản xuất kinh doanh, tạo việc làm,… Ước đến cuối năm 2020 có 99,7% hộ gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú; 99,5% xã/phường/thị trấn làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ, người có công; phấn đấu đến hết năm 2020 cơ bản hoàn thành việc hỗ trợ nhà ở đối với người có công với cách mạng và không còn hộ người có công thuộc diện hộ nghèo.

4. Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động; đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài về đích trước kế hoạch 1 năm; Việt Nam là một trong 10 quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới

Trong những năm qua, Bộ LĐ-TB&XH tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển thị trường lao động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với nhiều giải pháp đồng bộ nhằm kết nối cung-cầu lao động, giai đoạn 2015-2020, các trung tâm dịch vụ việc làm đã tổ chức gần 6.000 phiên giao dịch việc làm, giới thiệu và cung ứng gần 5 triệu lượt người, 68,5% trong số đó có kết nối việc làm thành công. Kết quả, cả nước đã giải quyết được trên 8 triệu việc làm, thị trường lao động Việt Nam có sự chuyển biến tích cực; cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực theo cơ cấu kinh tế; tỷ lệ thất nghiệp chung là 2,48% số người trong độ tuổi lao động, khu vực thành thị luôn duy trì dưới 4%. 

Đối với công tác đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, các giải pháp duy trì và phát triển các thị trường lao động ngoài nước được tiếp tục thực hiện đồng bộ, mở mới nhiều thị trường tiềm năng ở châu Âu. Trong cả giai đoạn 2016 -2020, cả nước đưa khoảng 635.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (vượt chỉ tiêu 24%, về đích kế hoạch 5 năm trước 1 năm). Trong đó, số lao động đưa đi năm 2019 đạt mức kỷ lục là hơn 150.000 người. 

5. Lần đầu tiên áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, thành tựu về giảm nghèo Việt Nam được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao

Tỷ lệ hộ nghèo năm 2020 giảm xuống còn 2,75%, về đích trước 10 năm so với Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (LHQ). Giai đoạn 2016-2020, Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều. Lĩnh vực giảm nghèo tiếp tục được Quốc hội, Chính phủ quan tâm, ưu tiên bố trí nguồn lực đầu tư trung hạn để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững. 

Cầu truyền hình “Cả nước chung tay vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau" và triển khai Tháng cao điểm "Vì người nghèo". Ảnh: Cổng Thông tin điện tử Bộ LĐ-TB&XH.

Nhờ đó, công tác giảm nghèo giai đoạn này đã giúp nâng cao thu nhập, cải thiện cả đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, người dân trên địa bàn nghèo, vùng đặc biệt khó khăn; tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều) của cả nước giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống còn 2,75% vào cuối năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vùng dân tộc và miền núi giảm khoảng 3-4%/năm; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm bình quân 4%/năm. Thu nhập bình quân hộ nghèo đến cuối năm 2020 tăng gấp 1,6 lần so với năm 2015. Diện mạo nghèo đói ở tất cả các vùng miền trên cả nước đã cải thiện đáng kể. Việt Nam đã hoàn thành, về đích trước 10 năm so với Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

6. Công tác trợ giúp xã hội ngày càng được mở rộng, diện bao phủ ngày càng lớn

Hơn 3% dân số được hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên; lần đầu tiên tổ chức tuyên dương 400 tấm gương sáng thầm lặng vì cộng đồng.

Chính sách pháp luật về trợ giúp xã hội từng bước được hoàn thiện; Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Công ước của LHQ về quyền của người khuyết tật và các chương trình, đề án trợ giúp đối tượng yếu thế được thực hiện đồng bộ; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 100% người cao tuổi, người khuyết tật...

Lần đầu tiên tổ chức Lễ tuyên dương “Những tấm gương sáng thầm lặng vì cộng đồng” nhằm tôn vinh những tổ chức, cá nhân có thành tích đặc biệt trong công tác trợ giúp xã hội, phát triển cộng đồng.

Kết quả thực hiện các chương trình, chính sách trợ giúp xã hội đạt được những kết quả khả quan, thực hiện đúng mục tiêu mở rộng đối tượng và nâng cao mức trợ giúp xã hội cho đối tượng, bảo đảm các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp kịp thời, cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản ngày càng tốt hơn.

7. Quyền cơ bản của trẻ em được tôn trọng và đảm bảo; Chỉ số Phát triển giới của Việt Nam nằm trong tốp 5 quốc gia cao nhất thế giới

Hệ thống pháp luật, chính sách về trẻ em từng bước được hoàn thiện, đồng bộ; Bộ đã hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương thực hiện có hiệu quả Luật Trẻ em và các chương trình, đề án, dự án về bảo vệ, chăm sóc trẻ em; dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Chính phủ đã thành lập Ủy ban quốc gia về trẻ em để giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thực hiện chỉ đạo, phối hợp, đôn đốc, điều phối giữa các bộ, ngành và địa phương để trẻ em ngày càng được hưởng đầy đủ hơn các quyền của mình trong đó có quyền phát triển và tham gia. Cùng với đó, các giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em, phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em cũng được tăng cường.

Công tác bình đẳng giới tiếp tục nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, giám sát của Quốc hội. Bộ đã chỉ đạo và phối hợp các cấp, các ngành, địa phương xây dựng, triển khai nhiều chương trình, chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy công tác bình đẳng giới; thực hiện công tác lồng ghép giới trong xây dựng và thực hiện các chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của các ngành, các cấp.

8. Chủ động tham mưu, triển khai chính sách an sinh xã hội, góp phần thực hiện thành công “mục tiêu kép” của Chính phủ

Năm 2020, trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Bộ LĐ-TB&XH đã tập trung cho công tác phòng, chống dịch Covid-19; chủ động phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan trình Chính phủ thông qua các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 và phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện Gói hỗ trợ An sinh xã hội đến đúng đối tượng, nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả.

9. Hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch Cộng đồng văn hóa xã hội ASEAN năm 2020

Trong những năm qua, thực hiện phân công của Chính phủ, Bộ LĐ-TB&XH đã tiếp tục thực hiện tốt vai trò đầu mối triển khai các hoạt động của Cộng đồng Văn hóa xã hội ASEAN, tiếp tục đẩy mạnh triển khai Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội trong khuôn khổ song phương, đa phương, ASEAN và các tổ chức phi chính phủ. 

Riêng trong năm Chủ tịch ASEAN 2020, Bộ LĐ-TB&XH đã triển khai được nhiều hoạt động đúng tiến độ, tiết kiệm, hiệu quả.

10. Niềm tin của người dân về chính sách xã hội được nâng lên

Quan tâm đến quyền lợi của người dân và cộng đồng xã hội, công tác trả lời cử tri, chất vấn của các đại biểu Quốc hội; tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo được Lãnh đạo Bộ LĐ-TB&XH đặc biệt quan tâm, dành thời gian tiếp định kỳ để lắng nghe, chia sẻ, giải quyết khó khăn, vướng mắc của người dân và các đối tượng chính sách. Trong thời gian qua, tổng số lượt công dân đến trụ sở của Bộ và được tiếp là 13.981 lượt người, đã tiếp nhận 27.435 đơn thư với 100% số đơn thư được xử lý theo thẩm quyền.

BĂNG CHÂU