Đến đầu tháng 3-2016, Kyodo cho biết đã có 20 tờ báo Nhật Bản sử dụng bài viết và ảnh chụp của hãng này về chuyến đi Điện Biên Phủ cùng với cựu phóng viên Báo Quân đội nhân dân Phạm Phú Bằng, người đã từng có những ngày tháng làm báo dưới chiến hào Điện Biên Phủ. Dưới đây là trích đăng nội dung bài báo trên tờ Kahoku (Miyagi) của Nhật Bản số ra ngày 12-12-2015:

Chiếc máy ảnh được tặng và khao khát trở thành phóng viên

Điện Biên Phủ nằm gần biên giới Lào ở phía Tây Bắc Việt Nam, là khu lòng chảo thon dài được bao quanh bởi những ngọn núi cao trên dưới 1000m, rộng 20km theo hướng Bắc Nam và 6km về hai phía Đông Tây. Tại nơi này, ngày 7-5-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam đã mở trận đánh cuối cùng, chiếm giữ pháo đài của quân đội Pháp, quyết định hướng đi cho chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (chiến tranh chống Pháp) và kết thúc sự xâm lược của Pháp trong suốt hơn 80 năm. Trong lịch sử, đây là trận chiến nổi tiếng được biết đến với cái tên “Chiến dịch Điện Biên Phủ”.

Có những người hoàn toàn không biết rằng báo chí lại được in ấn ngay tại chiến trường trong cuộc chiến khốc liệt này, khi phải chia nhỏ linh kiện máy in lăn để vác, còn giấy in và mực in thì được người cõng trên lưng để chuyển lên. Sau khi in xong, bằng xe đạp và đi bộ, những tờ báo được phát ngay tới tay bộ đội ở tiền tuyến.

Ảnh nhà báo Phạm Phú Bằng, nguyên phóng viên Báo Quân đội nhân dân đăng trên Báo Kahoku (Miyagi). 

Ông Phạm Phú Bằng, 85 tuổi, từng là phóng viên của Báo Quân đội nhân dân-tờ báo của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày hôm nay, sau hơn 60 năm chiến tranh, ông điềm tĩnh kể lại cho chúng tôi nghe nhiều câu chuyện.

Ông Bằng sinh tại Quảng Nam-một tỉnh ở miền Trung Việt Nam, tham gia đấu tranh giải phóng từ lúc 15 tuổi. Sau một đợt tác chiến ở miền Trung Việt Nam, ông được một người quen tặng chiếc máy ảnh cũ của Đức. “Tôi không hiểu vì sao anh ấy lại cho tôi, nhưng chiếc máy ảnh này chính là duyên cớ để tôi trở thành phóng viên”, ông nhớ lại.

Từ một người chưa từng có kinh nghiệm làm phóng viên, ông Bằng “xem người ta viết để học lỏm” và làm phóng sự đầu tiên của mình năm 20 tuổi. Ít lâu sau, ông được cử đến Điện Biên Phủ làm phóng viên Báo Quân đội nhân dân. Ông kể: “Lúc đó là tháng 11-1953, binh lính Pháp lần lượt nhảy dù và thả dù nhiều màu, đưa đại bác và xe tăng xuống Điện Biên Phủ. Quân đội Pháp chính thức bắt đầu dồn binh lực cho trận chiến tại Việt Nam”.

Trong 150 ngày kể từ ngày ấy, ông Bằng vẫn theo các trận chiến ở phía đầu chiến tuyến. Cuốn nhật ký ghi lại quãng thời gian ấy hiện vẫn đang được trưng bày tại bảo tàng ở Hà Nội như những tài liệu quý giá ghi lại cụ thể tình thế bấy giờ.

Vậy chiếc máy ảnh khiến ông trở thành phóng viên cũng theo ông ra chiến trường? “Vì không có phim chụp ảnh nên tôi không chụp được tấm ảnh nào”, ông vừa cười vừa xoa xoa chiếc máy ảnh đã cẩn thận cất giữ bấy lâu đang cầm trên tay.

Có hai phóng viên lúc bấy giờ là ông Bằng và một phóng viên đàn anh nữa. Ngoài ra còn có nhiều cộng tác viên ở dưới các đơn vị chiến đấu. “Chúng tôi ngủ trong rừng rậm, ngủ trên đồng và trong những hầm tránh bom. Đây là những bản thảo tôi viết từ thời đó”, ông cho chúng tôi xem tập giấy giống quyển sổ tay được viết đầy những con chữ ngăn nắp và tỉ mỉ.

Có 33 số báo được phát hành trong thời gian chiến tranh ấy. Tất cả từ số báo đầu (phát hành ngày 28-12-1953) đến số báo cuối cùng (phát hành ngày 16-5-1954) vẫn được lưu giữ tại tòa soạn Báo Quân đội nhân dân tại Hà Nội. Có nhiều số báo được phát hành trong khoảng 54 ngày đêm diễn ra trận chiến tấn công và phòng thủ.

Thời kỳ đầu, báo ra 2 trang với kích thước khổ nhỏ, nhưng về sau số báo báo tin chiến thắng dài khoảng 6 trang và bìa báo được in nhiều màu. Báo được khắc trên gỗ, in máy cùng với in tay và tô màu thủ công. Dù đối tượng bạn đọc chủ yếu là bộ đội, nhưng tờ báo vẫn được chuyền từ tay người này sang người khác, được anh chị em dân công và quần chúng nhân dân tìm đọc. “Với các chiến sĩ, điều thích nhất giữa hai trận đánh là được ăn cơm nóng và tiếp theo là được đọc báo”, ông Bằng nói.

Nuôi dưỡng niềm tin chiến đấu đến cùng

Thời chống Pháp rất thiếu thốn vật chất, có những ngày không lương thực, dép lê cũng không đủ, có nhiều binh sĩ đi chân trần. Quân đội nhân dân Việt Nam rất biết ơn phụ nữ đồng bào dân tộc đã bí mật vận chuyển lương thực và thuốc cây lá gia truyền đến cho bộ đội.

Vậy bộ đội ăn gì để mà chiến đấu đến cùng? Ông Bằng trả lời: “Đó chính là niềm tin”.

Các thành phố đều bị quân đội Pháp đàn áp, chiếm đóng. Do vậy, căn cứ chính của Quân đội nhân dân Việt Nam thời chống Pháp là 6 tỉnh “Khu giải phóng”  nằm ở vùng miền núi. Bộ đội đào đất mở những con đường dài hàng trăm ki-lô-mét qua núi cao và rừng rậm, đào những đường hầm dưới đất chạy quanh nối các trại quân. Vật tư như đại bác, đạn dược… có khi nặng hàng chục tấn, được vác lên đỉnh núi bằng sức người.

Có 20.000 chiếc xe đạp làm công tác hậu cần với hai chiếc sọt buộc chặt vào hai bên xe chất đầy lương thực và đạn dược, chạy cả 100-200km từ Khu giải phóng, vết bánh xe hằn ghi trên những dốc núi dọc đường vận chuyển đến Điện Biên Phủ. Công việc này có cả chị em phụ nữ đảm nhiệm, trên mỗi chiếc xe đạp trở về Khu giải phóng, họ lại thồ thêm hai bộ đội bị thương hoặc di hài, di vật của bộ đội tử nạn.

Ông Bằng cũng đã từng đi bộ qua nhiều chiến trường. Năm 1991, ngay cả khi đã nghỉ hưu, ông Bằng vẫn tiếp tục hoạt động văn hóa, đi thăm chiến trường xưa, tiếc thương những chiến sĩ đã hy sinh và tặng quà (đồ dùng văn phòng phẩm và thuốc chữa bệnh…) cho trẻ em nghèo vùng dân tộc thiểu số.

NGUYỄN HƯƠNG GIANG (dịch)