Lần cuối cùng là năm 1989, tôi ở thị xã Stung Treng chuẩn bị theo đoàn quân qua biên giới về Cửa khẩu Đức Cơ (Plei-cu) làm lễ tiễn. Tư liệu có rồi mà không có cách nào gửi về tòa soạn. Đúng lúc đó có chuyến bay AN26 chở đoàn đại biểu từ TP Hồ Chí Minh qua để dự lễ. Mừng quá, tôi liên hệ bay về. Thế là chuyến bay ấy chỉ chở một người khách là tôi. Sau khi gửi bài, ảnh về tòa soạn, tôi lại bay lên Plei-cu để kịp dự lễ. Dự buổi lễ ấy có Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Trong những chuyến công tác dài ngày theo sát các đơn vị làm nghĩa vụ quốc tế truy quét tàn quân Pôn Pốt, tôi có nhiều kỷ niệm. Nhớ nhất là một lần tại sân bay Xiêm Riệp. Đang ngủ trưa cùng bộ đội trong các lều bạt thì có những tiếng nổ đinh tai, chát chúa, khói cuộn lên. Tưởng bị giặc tập kích, chúng tôi cầm súng và lựu đạn lao ra. Hóa ra đó là mấy quả đạn hỏa tiễn của Pôn Pốt từ rừng bắn vào. Chúng đặt chế độ hẹn giờ tự động nên ta truy đuổi không được.
Tác giả (bên phải) trò chuyện thân mật với các sĩ quan, binh sĩ Quân đội Hoàng gia Cam-pu-chia. Ảnh: Đào Trọng.
Năm 2001, tôi trở lại Cam-pu-chia cùng đội công tác thuộc Ủy ban Tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ Quân tình nguyện Việt Nam hy sinh tại Cam-pu-chia (gọi tắt là VCAER). Tôi sắm hai vai, vừa là thành viên của đội công tác, vừa là nhà báo.
Chúng tôi không mang vũ khí, không mặc quân phục, áo bên vai trái có phù hiệu VCAER, đúng diện mạo đội quân công tác, làm việc hiếu nghĩa. Mọi trang phục quần áo, mũ, giày, ba lô đều màu xanh hòa bình.
Khi chiếc xe vận tải Zin 131 rùng rùng lăn bánh qua Cửa khẩu Sa Mát sang nước bạn, tâm trạng tôi bồi hồi khó tả. Gần 20 năm trước, cũng đoạn đường này, tôi cùng các chiến sĩ tình nguyện, súng trong tay, đau đáu nhìn sang những bụi cây lúp xúp, cảnh giác với bọn tàn quân Pôn Pốt. Ngày ấy, tôi gặp Lữ đoàn Công binh 476 (Quân khu 7), viết về họ giúp bạn khôi phục con đường này, cùng bộ đội dựng lều bạt và mắc võng, ăn ngủ trong rừng để đào đắp, san lấp đường, thấm đẫm mồ hôi và cả máu!...
Chúng tôi đến các phum ven rừng, dựng lều bạt, đào bếp lò và dọn dẹp đường trong phum. Sáng sớm, chúng tôi nấu nướng rồi gánh đồ ăn vào rừng để lo bữa trưa. Chiều tối trở về phum làm công tác dân vận, khám bệnh, cấp thuốc cho dân, hỏi thông tin về mộ liệt sĩ. Mỗi khi có thông tin hoặc gặp dấu vết lạ, chúng tôi tản ra khắp cánh rừng để đào, tìm. Có những cánh rừng đào đến vài ngày mà không có kết quả.
Có lần cả đội hăm hở đào đến chiều mới biết nhiều đám đất cao, thấp giống hình ngôi mộ là do lợn rừng tạo nên từ lâu. Ai cũng biết tôi là nhà báo nhưng mặc đồng phục VCAER nên mặc nhiên cùng tham gia tìm kiếm, làm việc bình thường, không phân biệt, quản ngại. Nghe tin Đội K71 (tỉnh Tây Ninh) cách đó hơn 50km tìm được khá nhiều hài cốt, tôi nhờ một chiến sĩ Cam-pu-chia chở đến bằng xe Hon-đa. Sau gần 2 giờ đồng hồ luồn lách băng rừng, tôi đã gặp Đội K71 giữa cánh rừng le. Anh em hí húi đào, cất bốc, gói buộc. Rồi chúng tôi lại băng rừng, lội suối tìm kiếm mộ liệt sĩ ở các phum Sa Tun, Thơ Ma Đa, Mua Khốt. Mỗi khi tìm được hài cốt các chiến sĩ tình nguyện Việt Nam, chúng tôi lại bồi hồi xúc động, đón các anh về Đất Mẹ Việt Nam.
Sau chuyến đi ấy, tôi viết bút ký dài kỳ “Đồng đội tôi về Đất Mẹ” đăng Báo Quân đội nhân dân và tổ chức triển lãm ảnh “Nghĩa tình đồng đội” tại TP Hồ Chí Minh và Đồng Nai.
ĐÀO VĂN SỬ