Trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, là Tổng biên tập Báo Quân khu 5, Trưởng phòng Tuyên huấn Tiền phương Quân khu 5, tôi đã trực tiếp chiến đấu, công tác trên chiến trường Đông Bắc Campuchia và càng thấu hiểu điều này.

Tập đoàn Pôn Pốt, Yêng Xary đã gây ra cái chết của gần 2 triệu người Campuchia. Chủ quyền của nước ta cũng bị uy hiếp nghiêm trọng, do các cuộc tấn công xâm lược, thảm sát mà lính Pôn Pốt gây ra đối với đồng bào, chiến sĩ trên tuyến biên giới, buộc chúng ta phải phản công trên toàn tuyến, tiêu diệt bè lũ Pôn Pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng và bảo vệ Tổ quốc ta.

Nhớ lại thời điểm 40 năm trước, sau khi đi cùng Trung đoàn 31 giải phóng thị xã tỉnh lỵ Natarakiri, chúng tôi tiếp tục tiến về giải phóng huyện Vơnsai của tỉnh Natarakiri, giáp biên giới Nam Lào. Nơi đây, xóm làng hoang vắng không một bóng người; lính Pôn Pốt đã rút chạy hết. Trưa 31-12-1978, có hơn 200 người từ trong rừng sâu kéo ra gặp chúng tôi và vui mừng khôn xiết. Các chiến sĩ ta nhịn ăn, nấu thêm cơm, phân phát hết suất ăn trưa cho mọi người. Một bà mẹ bị gãy tay, được đồng chí quân y băng bó kịp thời và cho thuốc uống, khiến bà và mọi người hết sức cảm động. Hơn 200 người đều mặc bộ đồ vải thô màu đen, rách bươm; mặt mày ai cũng hốc hác, nhem nhuốc, gầy còm, tóc dài ngang lưng. Anh Xamoon, một giáo viên tiểu học, nói tiếng Việt khá sõi, trước đây từng giúp ta tiếp tế hậu cần trong kháng chiến, vừa khóc vừa nói với chúng tôi: “Tôi là người cuối cùng bị lính Pôn Pốt khoanh vòng mực đỏ, chuẩn bị đưa đi xử tử. Nếu bộ đội Việt Nam không đến kịp, chắc tôi cũng sẽ bị giết và bà con ở đây cũng sẽ chết dần chết mòn trong rừng sâu”.

Bà mẹ bị gãy tay khóc nấc lên và cho biết, Pôn Pốt giết chết hai con trai, gia đình giờ không có ai. Tôi lắng nghe anh Xamoon phiên dịch lời bà, nhìn người dân nước bạn mà mắt tôi cứ rưng rưng muốn khóc.

Ngày chia tay đi làm nhiệm vụ nơi khác, bà con trong làng ai cũng vây quanh chúng tôi mừng mừng tủi tủi tiễn đưa. Nhiều người không cầm được nước mắt, lưu luyến không muốn rời xa bộ đội Việt Nam.

Trên khắp nẻo đường đơn vị đi qua, ở đâu tôi cũng thấy bộ đội ta chăm sóc ân cần, tặng lương khô, thuốc men, giúp đỡ những đoàn người tìm về quê cũ. Ai cũng tin yêu bộ đội ta, gần gũi, tự nhiên như không có gì xa lạ...

Các đơn vị của ta tổng phản công trên toàn tuyến, tàn quân Khơ me đỏ rút về ẩn nấp ở vùng rừng núi giáp ranh Thái Lan. Tình hình đã khá ổn định; tôi được điều về Cục Chính trị Tiền phương Quân khu 5 ở ven thị xã Stung Treng. Bà con nơi đây tổ chức lễ mừng chiến thắng và Tết Chol Chnam Thmay,  tấm tắc khen: “Bộ đội Việt Nam tốt lắm! Họ là ân nhân đã cứu sống chúng tôi”.

Ngày 7-1 hằng năm ở Campuchia được coi là ngày cứu nguy đất nước, ngày  hồi sinh dân tộc Khơ me. Tại Phnom Pênh và nhiều địa phương khác trên đất bạn Campuchia đã xây dựng đài tưởng niệm Quân tình nguyện Việt Nam. Người dân thường gọi Bộ đội Việt Nam, Bộ đội Cụ Hồ là ân nhân, là Bộ đội nhà Phật và luôn bày tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ của Việt Nam, luôn quý trọng tình đoàn kết hữu nghị vô tư, trong sáng, thủy chung của quân đội và nhân dân Việt Nam.

HỒ NGỌC SƠN