Ông Hàm kể: “Hai gia đình chúng tôi thuê chung một nhà. Gia đình cô ấy ở tầng trên, gia đình tôi ở tầng dưới, mở một cửa hàng đóng giày, ngụy trang hoạt động cách mạng. Tiếp xúc hằng ngày, chúng tôi dần cảm mến, yêu thương nhau. Khi ngày hợp duyên đôi lứa gần kề thì Toàn quốc kháng chiến nổ ra, tôi lao vào chỉ huy đại đội tự vệ đi ngăn chặn bọn lính Pháp, mà tiếc nuối không kịp chia tay mẹ và người yêu”.
Giữa năm 1947, Nguyễn Trọng Hàm nghe tin mẹ và gia đình người yêu tản cư lên xã Ấm Thượng (nay là thị trấn Hạ Hòa, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ). Anh xin đơn vị nghỉ 2 ngày đi tìm người thân, thì đúng lúc Pháp nhảy dù tấn công Phú Thọ, phải quay về đơn vị chiến đấu, và hai người từ đó bặt tin nhau. Kháng chiến trường kỳ, người chiến sĩ “quyết tử quân” đành gác chuyện tình duyên, giữ trọn lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Ông Nguyễn Trọng Hàm và bà Vũ Thị Thuận trong ngày cưới, năm 1952. Ảnh tư liệu
5 năm sau, đơn vị Nguyễn Trọng Hàm chuyển về Mặt trận Hà Nội tại Vân Đình. Lúc này, anh mới có điều kiện hỏi han tin tức về người yêu và được biết gia đình cô đã về lại Hà thành. Những năm xa cách, cô gái cần cù, chịu khó lại xinh đẹp, nết na mà anh nhớ thương có bao chàng trai con nhà khá giả đến xin dạm hỏi; người thân, bạn bè vẫn khuyên cô đừng chờ đợi anh trong vô vọng nữa. Thế nhưng, cô vẫn một mực giữ trọn lời thề thủy chung năm xưa. Mặc dù rất yêu cô, nhưng anh lại cũng trăn trở rằng “con gái có thì”, trong khi đó người lính ra đi không hẹn ngày về… Vậy là anh quyết định gửi thư khuyên cô đừng chờ đợi thêm nữa mà lỡ dở tuổi xuân.
Nhận thư của người yêu, Thuận khóc thầm nhiều đêm rồi quyết tâm vượt ra vùng tự do tìm anh. Họ tìm thấy nhau tại Thái Nguyên, lúc này Hàm mới hay trước lúc Thuận rời Hà Nội, hai bên gia đình đã tổ chức đám hỏi cho hai người mà vắng mặt chú rể. Hạnh phúc đến quá bất ngờ, Hàm lập tức xin phép chỉ huy đơn vị tổ chức đám cưới ngay tại chiến khu. Đêm tân hôn giữa cái rét cắt da, cắt thịt, nhưng đong đầy hơi ấm tình yêu đôi lứa và tình đồng đội gắn bó keo sơn trong căn nhà nhỏ đơn sơ do đơn vị dựng tặng vợ chồng mới vô cùng hạnh phúc.
Một ngày sau đám cưới, Nguyễn Trọng Hàm lại cùng đơn vị tiếp tục nhiệm vụ chiến đấu, tham gia hết chiến dịch này đến chiến dịch khác. Lấy nhau 3 năm, nhưng hai người vẫn kế hoạch chưa sinh con để có thời gian tham gia cách mạng. Sau Ngày Giải phóng Thủ đô, vợ chồng đoàn tụ, 5 người con trai lần lượt ra đời. Năm 1966, khi anh Hàm vừa nhận nhiệm vụ đi vào chiến trường miền Nam thì cũng là lúc Thuận phát hiện có bầu đứa con thứ 6, nhưng cô giấu để chồng yên tâm làm nhiệm vụ.
Sau ngày toàn thắng, ông Hàm về nhận nhiệm vụ tại Học viện Quân sự Cao cấp (nay là Học viện Quốc phòng), còn vợ làm ở hợp tác xã thủ công nghiệp. Năm 1979, ông Nguyễn Trọng Hàm lại lên đường tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới. Nơi hậu phương, bà Vũ Thị Thuận một mình chăm sóc 6 con thơ và phụng dưỡng mẹ già đau ốm, là điểm tựa vững chắc để chồng yên tâm công tác.
Sau này khi đã nghỉ hưu, ông Hàm có nhiều thời gian ở bên cạnh vợ. Thế nhưng, thời điểm này, căn bệnh hiểm nghèo bất ngờ ập đến, khiến sức khỏe bà Thuận giảm sút nhanh chóng, phải nằm liệt giường. Nhận thấy cha đã già yếu, các con ngỏ ý thuê người giúp việc để chăm sóc mẹ nhưng ông Hàm nhất quyết không đồng ý. Vậy là một tay ông lo cho bà từng bữa ăn, giấc ngủ, đau cùng cơn đau của bà, cùng bà chiến đấu với bệnh tật trong những năm tháng cuối đời...
Tình yêu ấm áp trong suốt 73 năm tưởng dài nhưng với ông bà vẫn thật ngắn ngủi. Đã có lần ông hỏi bà có bao giờ hối hận khi làm vợ bộ đội? Bà nắm tay ông, cười hiền: “Những lúc xa nhau đằng đẵng, em cũng có buồn nhưng chỉ là thoáng qua, phần nhiều là lo lắng cho an nguy của anh nơi chiến trường khốc liệt. Bản thân em luôn tự hào được làm vợ của anh. Nếu được chọn lại lần nữa, em vẫn sẽ chọn anh!”. Và đó là lời nguyện ước cuối cùng của bà Thuận trước lúc về cõi vĩnh hằng; để lại ký ức khôn nguôi về người vợ tao khang và lời thề thủy chung luôn in sâu trong tâm trí người ở lại…
PHAN THU SA