Đây là những giai điệu hoan ca được nhạc sĩ Huy Thục cảm tác viết nên ca khúc “Tiếng đàn Ta lư” đầu năm 1967, cổ vũ quân và dân ta anh dũng chuyển quân, tải đạn vào chi viện giải phóng miền Nam.

Vùng núi rừng Trường Sơn nguyên sơ những ngày áp Tết, các già làng người Vân Kiều-Pa Cô ở bản Cợp đồng thuận tiến cử CCB Hồ Tư làm chủ lễ, xin tổ tiên và Giàng đem chiếc nhạc cụ cổ truyền ra tấu trình hai bài phú trên. Nói chuyện với chúng tôi, ông Tư ngược dòng thời gian về với những tháng năm mà "Tiếng đàn Ta lư" bắt đầu ngân nga khắp dãy Trường Sơn hùng vĩ.

Vợ chồng ông Hồ Tư đàn hát trước mâm cơm cúng tổ tiên.

“Các cán bộ ạ! Ngày đó, cũng vào một buổi chiều đầu xuân như thế này, mình và đám trai gái trong bản sau khi rủ nhau gùi bắp vào rừng tiếp tế bộ đội ta chiến đấu về thì ngay sớm hôm sau, mình tình nguyện nhập ngũ vào đơn vị bộ đội địa phương. Chúng mình làm nhiệm vụ phục kích đánh những tốp biệt kích của địch. Còn vợ mình tên là Hồ Thị Lài, lúc đó ở bản, vừa sản xuất, vừa tham gia tổ văn nghệ đàn, hát động viên bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn chạy ngang qua bản. Tới giữa năm 1967, đúng lúc bài "Tiếng đàn Ta lư" của nhạc sĩ Huy Thục được anh chị em các đoàn văn công thi nhau biểu diễn thì cấp trên điều mình sang đơn vị chủ lực. Mình cùng đồng đội tiến vào bao vây Khe Sanh, tiêu diệt địch ở các cứ điểm: Làng Vây, sân bay Tà Cơn, đồi Động Tri. Sau khi miền Nam giải phóng, mình xuất ngũ về bản cùng vợ xây dựng hạnh phúc gia đình. Còn bây giờ mình sẽ so dây cho bà ấy hát bài "Tiếng đàn Ta lư" của đồng chí Huy Thục để các đồng chí nghe nhé". Sau khúc nhạc dạo, tiếng bà Lài cất lên. Tuy tuổi đã cao nhưng giọng bà Lài vẫn thánh thót: Đi chiến trường gùi trên vai nặng trĩu/ Đàn Ta lư, em cất tiếng ca vang cùng núi rừng/ Mừng thắng trận quê em… Đàn em reo ca, ơi đàn Ta lư/ Rừng núi quê ta, tưng bừng reo ca…

Tiếng đàn và lời ca của vợ chồng ông Tư khiến chúng tôi mênh mang hình dung ra những chiều xuân trên dãy Trường Sơn hùng vĩ, tuy trong khói lửa chiến tranh nhưng vẫn vút lên giai điệu tươi vui cổ vũ đoàn quân đi như thác đổ, xuôi chiến trường miền Nam. Sau khi kết thúc đoạn điệp khúc, bà Lài mới chuyển giọng thổ lộ với chúng tôi những điều gan ruột: “Các chú ạ! Mỗi khi thấy cây đào sau nhà trổ đầy hoa là cái bụng mình lại thêm nhớ các anh bộ đội. Vào đầu năm 1968, các anh ấy vừa hành quân đến đầu con suối cạnh Đường 9 thì máy bay Mỹ ập đến, trút bom bất ngờ. Nhiều đồng chí hy sinh trong trận bom ấy. Vì thế, mỗi khi xuân đến như thế này là mình và ông nhà lại cầm chiếc đàn Ta lư ra đầu con suối linh thiêng kia hát mời vong linh các anh bộ đội ấy về nhà ăn Tết cho ấm lòng bà con dân bản”. 

Bên bếp lửa hồng, anh Hồ Văn Gian kể: “Năm 2018, để xây dựng xã nhà thành đơn vị điểm của huyện về nâng cao chất lượng huấn luyện dân quân theo hướng dẫn của trên thì trước mỗi khoa mục và giai đoạn huấn luyện, chúng tôi đều đến tận nhà động viên các dân quân và cũng xem anh em có khó khăn gì không để còn tìm cách giúp đỡ. CCB Hồ Tư thì truyền đạt cách làm mô hình, đồ dùng huấn luyện, cách đánh giặc truyền thống bằng những loại vũ khí tự tạo, như: Tên nỏ, bàn chông, bẫy sập... Thế mới thấy, việc vận dụng kinh nghiệm chiến đấu, cách đánh giặc của ông cha ta thời kháng chiến vào nâng cao chất lượng huấn luyện dân quân hiện nay là rất cần thiết”. 

Câu chuyện của chúng tôi bỗng chuyển từ cây đàn Ta lư sang việc huấn luyện dân quân của xã Húc Nghì từ lúc nào không hay. Như đi đúng mạch, ông Tư hưng phấn: “Ồ, mình cũng thích huấn luyện dân quân đấy. Tuy tuổi cao rồi nhưng mình có nhiều kinh nghiệm. Mình sẽ truyền hết cho các dân quân trẻ trong xã để họ thay mình gìn làng giữ bản. Lại nữa, sau Tết này, mình sẽ đi nói chuyện chiến đấu với mấy cháu chuẩn bị nhập ngũ để cho các cháu ấy hiểu thêm truyền thống của quê hương”. 

Nghe chuyện của ông Tư, lại biết thêm về những đổi thay trong cuộc sống của bà con Vân Kiều-Pa Cô ở bản Cợp, chúng tôi như thấy mùa xuân thêm rộn ràng trên núi rừng Trường Sơn.   

Bài và ảnh: TÔ VĂN BINH