QĐND - Vấn đề di cư trong nước và quốc tế là một hiện tượng phổ biến đối với nhiều quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay. Thông qua di cư quốc tế, người dân giữa các quốc gia được trao đổi, giao lưu văn hóa, hiểu rõ hơn về phong tục tập quán giữa các nước. Theo báo cáo của Tổ chức Di cư quốc tế (IOM), năm 2011, tổng thu nhập của người lao động di cư toàn cầu đạt 440 tỷ USD và một lượng kiều hối ước tính 350 tỷ USD đã được gửi về các nước đang phát triển. Như vậy, hoạt động di cư đã mang đến rất nhiều lợi ích cho quá trình phát triển cũng như mang lại các kiến thức, kỹ năng, thu nhập cho người di cư.

Tuy nhiên, hoạt động di cư cũng có mặt trái và những thách thức, rủi ro lớn cho người di cư nếu không được quản lý tốt, bao gồm tình trạng không có quốc tịch, nguy cơ về buôn bán người, bị bóc lột, xâm hại... Trong những rủi ro trên, phụ nữ di cư là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương hơn cả. Họ làm việc rất nhiều trong các khu vực phi chính thức hoặc công việc có tính đặc thù như giúp việc gia đình và các dịch vụ xã hội dành cho họ còn nhiều hạn chế. Do đó, nhu cầu của phụ nữ di cư đối với các dịch vụ xã hội khác nhau như y tế, giáo dục, chăm sóc sức khỏe sinh sản, dịch vụ pháp lý… là rất lớn.

Lao động nữ Việt Nam làm việc tại một xưởng may ở Nhật Bản.

Việt Nam là quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương có số người đi làm việc ở nước ngoài ngày càng tăng, trong đó, tỷ lệ lao động nữ di cư đi làm việc ở nước ngoài chiếm con số khá lớn. Năm 2013, Việt Nam có hơn 88 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài, trong đó lao động nữ chiếm khoảng 36%, tương đương hơn 31.700 người. Trong bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam luôn chú trọng đến việc bảo vệ quyền lợi và các dịch vụ xã hội cho người di cư, đặc biệt là di cư nước ngoài. Điều này được thể hiện ở việc năm 2006, Quốc hội đã thông qua Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và các cơ quan chức năng đã ban hành những văn bản hướng dẫn thi hành luật. Chính phủ Việt Nam cũng tích cực hợp tác với Chính phủ các nước nhận lao động để bảo vệ quyền lợi của lao động Việt Nam làm việc ở các nước này. Ngoài ra, Việt Nam là thành viên tích cực của Ủy ban ASEAN về thực hiện tuyên bố ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư, trong đó có phụ nữ. Luật Quốc tịch cũng đã được sửa đổi nhằm hỗ trợ, bảo đảm quyền lợi về Quốc tịch và công dân cho phụ nữ lấy chồng nước ngoài, tăng cường thông tin và truyền thông nhằm nâng cao hiểu biết, phòng tránh rủi ro liên quan cho người di cư trong và ngoài nước.

Theo Tiến sĩ Jobst Koehler, Trưởng Bộ phận chương trình Thúc đẩy các dịch vụ xã hội cho phụ nữ di cư: Phụ nữ châu Á đang ngày càng di cư độc lập và hiện tượng “chảy máu chất xám” thường gắn với phụ nữ hơn là nam giới. Mặc dù, lao động nữ di cư thường làm việc trong các lĩnh vực rủi ro, ví dụ như giúp việc gia đình, sản xuất, chăm sóc... nhưng ngày càng có nhiều phụ nữ di cư vì mục đích giáo dục và tìm kiếm công việc có trình độ trung bình hoặc cao. Các hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt là ở những nước đang phát triển, không dễ tiếp cận cho người di cư, đặc biệt là những người làm việc trong các khu vực có tay nghề thấp. Đến nay số lượng người di cư quốc tế chiếm tới 3,1% dân số toàn cầu với 1 tỷ người di cư trên toàn thế giới. Riêng ở châu Á, số lượng người di cư tăng từ 28 triệu người năm 1970 lên 61 triệu người năm 2010 - đứng thứ 2 trên thế giới, chỉ sau châu Âu. Mỗi năm có tới hơn 3 triệu lao động châu Á ra nước ngoài tìm việc.

Việt Nam là nước có số lượng lao động di cư ngày càng tăng, trong đó, tỷ lệ nữ di cư làm việc ở ngước ngoài chiếm con số khá lớn. Để việc bảo vệ quyền lợi lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài được triển khai tốt, trong thời gian tới chúng ta cần có chính sách cụ thể hơn đối với nữ giới để khi đi làm việc ở nước ngoài sẽ thu được lợi ích tối đa./.

Bài và ảnh: VŨ LAN