Để tiếp tục tiêu hao sinh lực địch, hỗ trợ địa phương phát triển cơ sở cách mạng, đầu tháng 9-1972, chỉ huy sư đoàn quyết định đưa Trung đoàn 64 (thiếu) tăng cường thêm Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 48) và Đại đội 1 (Tiểu đoàn 16 súng máy cao xạ 12,7mm-nơi tôi đang công tác lúc bấy giờ)… thực hành đánh địch mở đất, giành dân.
Bộ đội Trung đoàn 48 và du kích huyện 5 (tỉnh Gia Lai) sau những trận đánh giao thông ác liệt ở Đường 14 (tháng 9-1972). Ảnh tư liệu
Trong đội hình Đại đội 1, Trung đô%3ḅi 1 của tôi tăng cường cho Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 48) làm nhiê%3ḅm vụ đánh cắt giao thông từ Phú Mỹ đi Mỹ Thạch. Trải qua những trận đánh ác liệt từ Kon Tum về Gia Lai, quân số đơn vị đã hao hụt, ở Tiểu đoàn 2 mỗi đại đội chỉ còn chưa đầy 20 tay súng, nhưng tất cả vẫn tự tin bước vào trận đọ sức mới.
Phú Mỹ là khu vực khá bằng phẳng, có ngã ba Đường 21 nối với Đường 14, cách Plei-cu 20km về phía nam. Là vị trí khá “đắc địa” trên trục đường giao thông huyết mạch giữa Plei-cu và Buôn Ma Thuô%3ḅt nên địch cho mô%3ḅt đại đô%3ḅi bảo an chốt giữ, khi chiến sự xảy ra Trung đoàn 53 (Sư đoàn 23 ngụy) sẽ cơ đô%3ḅng lên ứng cứu. Để tạo “hàng rào” bảo vê%3ḅ, địch dồn dân, lâ%3ḅp các “ấp chiến lược” dọc hai bên đường. Sau nhiều ngày nghiên cứu địa hình và quy luâ%3ḅt hoạt đô%3ḅng của địch, chỉ huy Tiểu đoàn 2 quyết định chọn khu vực cách ngã ba Đường 21 về phía nam hơn 1km làm vị trí đặt trâ%3ḅn địa chốt.
Sau khi hoàn thành việc xây dựng trận địa, vào một buổi sáng, khi mặt trời lên khoảng mô%3ḅt con sào, trung đô%3ḅi bảo an địch ngồi trên hai xe GMC và ba chiếc xe bọc thép M113 từ phía bắc cơ động xuống tuần tra. Địch khá chủ quan nên đi rất gần nhau. Chờ đô%3ḅi hình địch vào giữa trâ%3ḅn địa, các cỡ súng của ta đồng loạt nổ giòn. Chiếc M113 đi đầu và hai chiếc xe GMC trúng đạn bốc cháy, bọn địch trên xe phần lớn bị tiêu diê%3ḅt. Hai chiếc M113 còn lại vô%3ḅi tản ra bắn như đổ đạn. Vài phút sau, mô%3ḅt chiếc M113 nữa bị trúng đạn B40 nổ tung. Chiếc còn lại vô%3ḅi quay đầu chạy về phía sau…
Khi khói thuốc súng chưa kịp tan thì pháo địch bắn tới tấp vào khu vực trâ%3ḅn địa của ta. Pháo địch vừa dứt thì 4 chiếc trực thăng “cá lẹp” phành phạch bay đến, nhanh chóng hạ thấp đô%3ḅ cao bắn đại liên, phóng rốc-két xuống khu vực trâ%3ḅn địa chốt của Đại đô%3ḅi 5 (Tiểu đoàn 2). Trước tình thế đó, trâ%3ḅn địa 12,7mm của chúng tôi lâ%3ḅp tức nhả đạn chống trả. Một chiếc máy bay địch dính đạn, phụt khói đen ngòm lao về phía Bắc, khiến những chiếc còn lại sợ hãi, vội nâng đô%3ḅ cao, rồi mau chóng biến mất. Từ đó đến chiều cùng ngày, địch cho pháo bắn từng châ%3ḅp và tổ chức trinh sát trên không.
Ngày hôm sau, mới hơn 7 giờ sáng, mô%3ḅt chiếc L19 đã vè vè bay tới, rồi lao xuống phóng pháo khói vào khu vực trâ%3ḅn địa Đại đô%3ḅi 6. Chưa đầy 3 phút sau, một tốp 3 chiếc A37 đã ào tới, khai hỏa. Cùng lúc, hai dòng đạn lửa vút lên, tên “giặc trời” loạng choạng, cố cắt bom rồi lao về hướng tây. Bị sức hút của máy bay, quả bom dài ngoẵng bay theo và rơi sau trâ%3ḅn địa đến 500m mới nổ tung. Hai chiếc sau thấy vâ%3ḅy, liền đổi hướng bổ nhào, cắt bom bừa bãi rồi biến mất. Khi vừa dứt tiếng bom, bô%3ḅ binh địch chia làm hai mũi có xe tăng, thiết giáp dẫn dắt tiến vào trâ%3ḅn địa của ta. Bất thần, các chiến sĩ Đại đô%3ḅi 6 từ trong công sự được ngụy trang kín đáo bâ%3ḅt lên đồng loạt nổ súng. Ngay loạt đầu đã tiêu diệt hơn 30 tên, thiêu cháy 1 xe tăng M41.
Sáng sớm ngày thứ ba, địch cho pháo bắn cấp tập hàng giờ liền vào trâ%3ḅn địa của Tiểu đoàn 2, rồi đưa bộ binh vào giao chiến. Thế nhưng chúng đâu có ngờ, các cỡ súng của ta lại bất ngờ nổ giòn. Chỉ chưa đầy 30 phút, gần 1 đại đô%3ḅi, 2 xe M113, 1 xe tăng M41 của địch bị tiêu diê%3ḅt. Tuy nhiên, Đại đô%3ḅi 6 cũng hy sinh thêm 6 đồng chí, trong đó có Đại đô%3ḅi trưởng Nguyễn Tiến Mạo.
Phối hợp với Tiểu đoàn 2, các chiến sĩ Tiểu đoàn 7 cũng hoạt đô%3ḅng mạnh từ Mỹ Thạch đến Phú Quang và Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 64) đánh mạnh từ Phú Quang đến Nhơn Hòa. Bị ta chặn đánh cả hai đầu, địch ở phía sau không lên được, bọn ngụy quyền ác ôn trong các “ấp chiến lược” sợ hãi, co lại. Chỉ 3 đêm, bộ đội Tiểu đoàn 12 và du kích đã hỗ trợ các đội công tác tuyên truyền, phát động bà con trong các “ấp chiến lược” đứng lên diệt ác, phá kìm trở về làng cũ.
Phải đối phó với ta trên mô%3ḅt chặng đường dài hàng chục cây số, lại bị mất hệ thống ngụy quyền cùng hàng chục “ấp chiến lược”, địch rất cay cú nhưng chưa tìm được cách gì chống đỡ. Những ngày sau, địch cho pháo bắn cầm canh từng đợt vào trâ%3ḅn địa của ta; đồng thời đẩy mạnh vận động, tuyên truyền. Phán đoán địch sẽ tăng quân tiếp tục đột phá, chỉ huy Tiểu đoàn 2 chỉ đạo các đơn vị ổn định tổ chức, củng cố trận địa, đồng thời đưa Đại đội 7 dự bị vào chiến đấu. 7 ngày sau, địch cho một tiểu đoàn từ phía sau lên, có xe tăng, thiết giáp yểm trợ mở đợt tấn công mới, nhưng đã vấp phải sự phản công mãnh liệt của ta, khiến hơn 100 tên địch phải bỏ mạng, 2 xe tăng M41, 3 xe M113 và 1 máy bay bị tiêu diệt. Trong trận này, tuy ta cũng bị tổn thất về con người, nhưng hiê%3ḅu suất chiến đấu cao; khí phách kiên cường và lối đánh nhanh, táo bạo của bộ đội khiến quân địch phải chùn bước. Như vậy, sau 16 ngày đêm trên “chốt thép” dưới mưa bom bão đạn của địch, chúng tôi vẫn giữ vững trận địa. Đường 14 bị cắt đứt, hê%3ḅ thống đồn bốt và “ấp chiến lược” của địch từ Phú Mỹ đến bắc Nhơn Hòa bị phá tan, hơn 7.000 người dân được giải phóng trở về quê cũ…
Vừa qua, có dịp trở lại thăm “chốt thép”, tôi thực sự ngỡ ngàng trước sự đổi thay ở nơi đây. Khu vực ngã ba Phú Mỹ tan hoang vì đạn bom thù ngày ấy nay đã là khu dân cư trù phú thuộc huyện Chư Sê (Gia Lai) với những dãy nhà xây đời mới nối tiếp nhau. Khu vực trận địa của chúng tôi năm xưa đã là bạt ngàn màu xanh của cao su. Cuộc sống mới trên chiến trường xưa đã thực sự khởi sắc!
Đại tá NGUYỄN HÙNG TẤN, Nguyên chiến sĩ Đại đội 1, Tiểu đoàn 16, Sư đoàn 320 (Mặt trận Tây Nguyên)