Những tác phẩm văn học sinh ra từ các cuộc chiến tranh yêu nước phần nào đã phản ánh được hiện thực của thời ấy với âm hưởng chủ đạo là ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao cả, cổ vũ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của dân tộc ta. Dòng văn học chiến tranh được làm nên chủ yếu từ đội ngũ những người cầm bút mang áo lính hùng hậu và cộng hưởng mạnh mẽ vào tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân ta.
Không quá khó lý giải vì sao văn học chiến tranh của một thời ít khai thác về những mất mát, bi thương, những tổn thất, sai lầm của chúng ta. Tình thế đất nước lúc ấy cần những hồi kèn xung trận hào hùng, nỗi đau phải nén xuống tận đáy lòng, nói như nhà văn Nam Hà thì Xa nhau không hề rơi nước mắt/ Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt. Chỉ sau chiến tranh chống Mỹ, những câu thơ như thế này mới xuất hiện nhiều: Một đời người mà chiến chinh nhiều quá/ Em níu giường, níu chiếu đợi anh (thơ Hữu Thỉnh). Viết về chiến tranh như nó đã xảy ra, với các mặt tương phản, đối lập nhau trên cái đối tượng muôn thuở là con người đã trở thành xu hướng chung của các nhà văn thời hậu chiến. Viết về chiến tranh là viết về con người trong số phận chung của dân tộc; họ bị cuốn vào những cơn lốc lịch sử dù ở phía nào. Bi kịch đâu chỉ ở một phía chiến bại, sau khúc khải hoàn ca của người thắng trận cũng đẫm thấm rất nhiều nước mắt. Vì thế mới có cái nhìn cảm thông đầy tính nhân văn và khát vọng hòa hợp hòa giải dân tộc trong nhiều trang viết. Nhờ thế mà bạn đọc đánh giá cao các tác phẩm viết về chiến tranh như các tiểu thuyết: Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh; Chim én bay của Nguyễn Trí Huân; Bến đò xưa lặng lẽ của Xuân Đức; Bến không chồng của Dương Hướng, Lính trận của Trung Trung Đỉnh...; các trường ca Mở bàn tay gặp núi của Nguyễn Đức Mậu, Biển của Hữu Thỉnh; Sông Mê Kông bốn mặt của Anh Ngọc, Đổ bóng xuống mặt trời của Trần Anh Thái...
Hiện thời, văn học về chiến tranh không còn là dòng chảy chủ đạo nữa. Vậy thì, nó còn xứng đáng để những người cầm bút và bạn đọc quan tâm nữa hay không? Tôi nghĩ, chiến tranh và hòa bình vẫn là đề tài không bao giờ cũ của văn học. Hơn nữa, với nước ta, lịch sử dựng nước cũng là hành trình giữ nước nhiều thăng trầm cam go. Những gì đã có trong văn học nước nhà hình như chưa khai thác, chuyển tải, phản ánh hết các cuộc chiến tranh dân tộc đã trải qua. Còn những tầng vỉa, khoảng mảng, những lưu vực, chiều kích, những tình huống, nhân vật đang khuất ẩn đâu đó chờ các nhà văn. Sau lớp bụi thời gian, đó đây còn không ít những phôi liệu quý giá như vàng ròng cho văn học về chiến tranh. Những nhà văn tài năng có duyên bắt gặp được các phôi liệu đó chắc chắn sẽ dựng nên được những tác phẩm để đời, không chỉ tỏa sáng trong nước mà còn chinh phục được bạn đọc ngoài biên giới. Chúng ta có quyền hy vọng Việt Nam sẽ có những tác phẩm viết về chiến tranh đủ sức lay động bè bạn bốn phương. Tác phẩm đó có thể được viết ra bởi những nhà văn chưa đi qua chiến tranh nhưng có khả năng thẩm thấu lịch sử, sự diễn đạt độc đáo.
Văn học viết về chiến tranh chưa cũ và có lẽ không bao giờ cũ. Tuy nhiên, đội ngũ các nhà văn trải qua chiến tranh, tâm huyết với đề tài này đang ít dần và đến lúc sẽ không còn nữa. Những người cầm bút thế hệ sau sẽ ứng xử với đề tài này như thế nào, có lẽ đó cũng là điều mà xã hội nên quan tâm. Rất nên có những việc làm tác động tích cực vào lực lượng cầm bút như xây dựng đội ngũ, tổ chức trại sáng tác, tạo điều kiện xuất bản, khen thưởng để dòng văn học về chiến tranh luôn được thông chảy và đạt được những thành quả mới. Nên chăng, ngoài Giải thưởng Bộ Quốc phòng, hằng năm Hội Nhà văn Việt Nam cần có giải thưởng trao tặng tác phẩm xuất sắc viết về chiến tranh. Một vấn đề nữa là Nhà nước cũng cần có những dự án dành cho văn học viết về chiến tranh một cách thiết thực và hiệu quả. Đầu tư chiều sâu cho những nhà văn có khả năng viết về đề tài này là cách làm hợp lý mà một số bộ ngành và nhà xuất bản nên duy trì thường xuyên. Tác phẩm xuất sắc được sinh ra từ những nhà văn có tài. Ai cũng biết vậy. Nhưng sự hỗ trợ tốt của xã hội nhất định sẽ tiếp thêm cảm hứng, năng lượng sáng tạo và điều kiện làm việc cho nhà văn. Có những tác phẩm hay về chiến tranh cũng là sự tri ân của chúng ta đối với những người đã ngã xuống vì độc lập tự do của đất nước.
NGUYỄN HỮU QUÝ