Bằng chứng là giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2018 không có tác phẩm văn xuôi và thơ nào được tôn vinh. Chỉ có một tác phẩm thuộc chuyên ngành lý luận Văn học Nga hiện đại, những vấn đề lý thuyết và lịch sử của Trần Thị Phương Phương và hai tác phẩm dịch, tiểu thuyết Hoàng đế của Riszard Kapuscinski (Ba Lan) do Nguyễn Chí Thuật dịch và tập thơ Tương lai được viết trên đá cổ của Fernando Rendón (Colombia) do Phạm Long Quận dịch nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Hội Nhà văn Hà Nội cũng không tìm được tác phẩm văn xuôi và thơ nào xứng đáng để trao giải hằng năm. Le lói chút sáng khi biết tin Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh có trao giải thưởng cho tác phẩm Bỏ qua rất uổng của Lê Giang và tặng thưởng cho tập thơ Những vàm sông đêm của Nguyễn Thị Ánh Huỳnh. Trước đó, trong giải thưởng Sách hay năm 2018 do Viện Giáo dục IRED trao, tên tác phẩm văn học Chuyện ngõ nghèo của lão nhà văn Nguyễn Xuân Khánh được xướng lên. Chỉ có vậy thôi!

Kết quả xét giải thưởng văn học trong năm thật èo uột. Điều đó có phản ánh đúng thực trạng tình hình văn học nước nhà hiện nay không? Hay là, do các hội đồng chuyên môn và ban chấp hành các hội khắt khe, cầu toàn quá. Theo lý giải của những người cầm cân nảy mực là do các tác phẩm dự xét giải thưởng văn học năm nay không tạo được dư luận, nghĩa là chẳng gây ấn tượng trong lòng công chúng. Điều đó hình như trái ngược với nhiều cuộc ra mắt sách rầm rộ, sang trọng kèm theo những lời khen tụng ngất ngưỡng của một số nhà văn nổi tiếng. Ai thẩm định thỏa đáng đây, hội đồng chuyên môn, ban chấp hành hay ý kiến của một số nhà văn phát biểu trong các buổi ra sách hoặc viết bài khen ngợi trên các báo, tạp chí. Quả là cũng hoang mang. Theo tôi, kết quả giải thưởng văn học hằng năm chưa phản ánh đầy đủ và chính xác tình hình văn học nước nhà. Có những năm giải thưởng văn học sum suê, đầy đủ mâm bát nhưng cũng bị phê phán, chỉ trích nhiều. Giải thưởng, suy cho cùng cũng chỉ là kết quả thẩm định, chấm điểm của những người trong hội đồng chuyên môn và ban chấp hành đó mà thôi. Đấy là chưa kể những người có quyền xét chọn đó có đọc kỹ, đọc hết, đọc đúng và công tâm chưa? Do đó, nếu chỉ nhìn vào giải thưởng mà đánh giá toàn bộ tình hình văn học nước nhà trong năm rất dễ phiến diện.

Có lẽ, nên có cái nhìn rộng hơn từ các tác phẩm xuất bản trong năm. Tôi thấy nền văn học nước nhà vẫn có những chuyển động tích cực, tuy đang chậm chạp nhưng sự lộn xộn, hỗn mang như mấy năm gần đây phần nào đã vơi bớt. Nhiều người cầm bút có xu hướng bám chặt vào đời sống xã hội, vừa quan tâm đến những vấn đề nóng bỏng đang xảy ra vừa đi sâu khai thác đề tài chiến tranh và lịch sử. Đổi mới nền văn học không chỉ ở hình thức đơn thuần mà chủ yếu là sự phát hiện những vấn đề mới, những mảng, những điểm mới trong sự trải nghiệm, soi chiếu cuộc sống ở nhiều chiều, nhiều tầng trên mẫu số chung là thân phận con người của dân tộc và của nhân loại. Các tác phẩm hay của Việt Nam được giải thưởng trong và ngoài nước đều làm được điều đó. Năm 2018, nữ nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giải Liberaturpreis của Đức với tác phẩm Cánh đồng bất tận. Người ta coi đây là một giải thưởng văn chương danh giá ở nước ngoài. Cánh đồng bất tận ra đời từ năm 2005 và nhận được một giải thưởng quan trọng từ nước ngoài đã được sự quan tâm đáng kể của bạn đọc, người viết. Câu chuyện, nhân vật, bối cảnh, không gian ấy chẳng phải là cái gì xa lạ đối với nhiều người Việt chúng ta và cách viết của Nguyễn Ngọc Tư cũng không mới lạ, tại sao Cánh đồng bất tận lại chinh phục được tâm hồn nhiều người thế. Cái duyên của văn chương có được từ đâu, sự cách tân “vô lối” mang lại điều đó không? Nguyễn Ngọc Tư từng trả lời phỏng vấn: “Tôi không phải kiểu thích mình mới bằng hình thức kiểu như một cuốn sách không dấu chấm câu hay một bản văn không có chữ nào viết hoa. Mới không phải từ chiếc áo khi tâm hồn ta mốc meo”.

Tôi nghĩ, nhà văn không thể không đồng hành với quê hương, đất nước, nhân dân mình. Cái hay, cái mới cũng bắt đầu từ đây. Chất liệu làm nên những sáng tạo của nhà văn trước hết là ở đó; những trang viết không thể tách rời, thoát ly số phận dân tộc. Càng đậm đà chất dân tộc càng có cơ hội tiến xa để hòa nhập vào nhân loại. Điều đáng buồn hiện nay là văn học Việt Nam được giới thiệu quảng bá ra nước ngoài rất ít. Ít đến mức chúng ta nghi ngờ và tự ti về khả năng sáng tạo văn chương của người Việt Nam. Nhiều người cho rằng, nền văn học Việt Nam nằm ở “vùng trũng” của thế giới. Nói thế là hơi quá. Tôi tin, nhiều tác phẩm văn học Việt Nam xuất hiện sau năm 1975 nếu được dịch tốt ra nước ngoài chắc chắn sẽ chiếm được cảm tình của người đọc. Đầu năm 2019, Liên hoan Thơ quốc tế và Hội nghị quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài sẽ lại được tổ chức tại nước ta. Chúng ta cùng hy vọng những điều tốt đẹp cho văn học đất nước trong thời gian tới.

NGUYỄN HỮU QUÝ