Ở vào thời điểm đó, việc Théophraste Renaudot nói như vậy là đặt ngang hàng một ngành khoa học quan trọng bậc nhất (lịch sử) với một loại hình văn hóa non trẻ mới ra đời. Ông cũng khái quát một đặc thù của báo chí, là do áp lực của tin tức cập nhật nên dễ sai sót. Ngày nay, nhiều học giả và nhà báo lớn ở phương Tây cũng như phương Đông, bức xúc trước mặt trái của bức gấm thêu kỳ vĩ “báo chí thời 4.0”, đã kêu gọi mọi người hãy ứng xử với báo chí như một giá trị xã hội, tức là giá trị văn hóa, tinh thần trước hết của quốc gia, dân tộc mình, thứ đến mới của nhân loại.

Khi xem xét báo chí dưới góc độ là một giá trị xã hội trước hết thuộc về quốc gia, dân tộc thì đương nhiên, đạo đức báo chí cũng mang tính đặc thù của quốc gia, dân tộc đó. Tất nhiên là, dẫu có đặc thù đến đâu thì nó vẫn mang những giá trị chung đã được toàn thể nhân loại công nhận. PGS, TS Nguyễn Thị Trường Giang vừa xuất bản công trình nghiên cứu “100 bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới” đã đánh giá rằng, quy tắc đạo đức nghề báo ở mỗi quốc gia có nhiều nét tương đồng nhưng cũng cộm lên những nét khác biệt, thậm chí có những khác biệt sâu sắc đến mức đối lập. Điều đó không có gì lạ, thế giới ngày càng phát triển với tốc độ vũ bão, giá trị đạo đức vì vậy mà không ngừng đổi thay, liên tiếp xuất hiện những giá trị mới. Quy tắc đạo đức nghề báo cũng vậy, mỗi nền văn hóa cần liên tục bổ sung, phát triển hệ thống quy tắc cho phù hợp với bản sắc văn hóa của mình cũng như theo kịp sự phát triển của báo chí thế giới.

Với suy nghĩ như vậy nên tôi cho rằng, việc Hội Nhà báo Việt Nam vừa công bố “Quy tắc sử dụng mạng xã hội của người làm báo Việt Nam” là rất cần thiết, dù có hơi muộn. Bộ quy tắc gồm 3 chương, 7 điều, trong đó nêu 8 việc người làm báo Việt Nam không được làm khi tham gia mạng xã hội. Đại đa số các nhà báo đều tán đồng, dù còn có một vài ý kiến băn khoăn như quy định người làm báo không “đưa ra các bình luận, chia sẻ quan điểm cá nhân trái với quan điểm của cơ quan báo chí nơi mình công tác”...

Có một thực tế là ở nhiều nước có nền báo chí chưa phải là phát triển nhất nhưng lại có những bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp sớm hơn nhiều so với những nước có nền báo chí phát triển. Ví dụ ở châu Âu, Thụy Điển từ năm 1916 đã có bộ quy tắc đạo đức báo chí nhờ sự nỗ lực của các chuyên gia pháp luật, các nhà báo và cơ quan báo chí. Trong khi đó, quy tắc đạo đức của nhà báo Anh và Ailen mãi đến năm 1936 mới được xây dựng. Còn quan niệm về tự do, dân chủ trong báo chí thì vốn đã là một đề tài tranh luận chưa bao giờ dứt. “Những nguyên tắc quốc tế về đạo đức nghề báo” được Tiểu ban của Liên hợp quốc về tự do thông tin và báo chí chuẩn bị dự thảo từ năm 1952 nhưng bị “ngâm” suốt từ đó đến nay và Đại hội đồng Liên hợp quốc đã quyết định dự thảo đó chỉ là tài liệu tham khảo cho các tổ chức và hiệp hội báo chí tham khảo. Nói thẳng ra là, Liên hợp quốc tôn trọng sự khác biệt trong quan niệm về giá trị đạo đức báo chí của các thành viên.

Ở Việt Nam, “thống nhất giữa nói và làm” là một nguyên tắc đạo đức, người thường đã vậy, người làm báo càng phải như vậy. Bạn đọc trong nước không thể chấp nhận một người làm báo mà trên báo nói thế này, trên mạng xã hội lại nói khác đi.

Cũng có người nói: Quy tắc là vậy nhưng quản được không? Tôi tin là quản được. Thực tiễn lịch sử báo chí thế giới cho thấy, bộ quy tắc đạo đức của mỗi quốc gia luôn là “tòa án danh dự” dành cho các nhà báo. Ở Việt Nam cũng vậy!

NGUYỄN HỒNG