Và có thể xem tập bút ký “Sống như một dòng sông” (NXB Lao Động, 2018) thuộc chương trình đầu tư sáng tác văn học của Bộ Quốc phòng như một minh chứng cho sự bén duyên của thể loại này với đề tài luôn nhận được sự quan tâm, chú ý của đông đảo bạn đọc trên cả nước.
Bên cạnh những bài bút ký phản ánh chân thật đời sống người lính hôm nay trong công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, thực thi nhiệm vụ và trong đời sống thường nhật của người lính thuộc các quân binh chủng khác nhau trên khắp mọi miền của Tổ quốc, từ người lính đeo quân hàm xanh nơi biên cương, người lính mặc quân phục trắng ngày đêm canh giữ biển đảo thiêng liêng cho đến những người lính đóng quân trên mảnh đất “miền Đông gian lao mà anh dũng”…, “Sống như một dòng sông” còn có những bài mang tính chất hồi ký, gợi nhớ về một thời “hoa lửa hào hùng” của những người lính đặc công, người lính tăng thiết giáp… Sự đan xen giữa các bài ký phản ánh quá khứ và hiện tại, giữa thế hệ người lính cầm súng chiến đấu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc ngày trước và thế hệ người lính lãnh trách nhiệm bảo vệ, gìn giữ nền độc lập ấy hôm nay đã cung cấp cho bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ tuổi sinh ra sau chiến tranh một cái nhìn vừa có tính lịch đại bao quát, hệ thống, vừa có tính đồng đại sinh động về hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ.
So với các thể loại khác, thể ký có những đặc trưng mà tính chân thật là đặc trưng cốt lõi. Sự kiện, con người, thời gian, địa điểm trong ký đều có thật. Chính điều này làm cho ký có sức cuốn hút đặc biệt. Và các tác giả trong quá trình tìm kiếm tư liệu đã khai thác được nhiều chi tiết đắt giá, cảm động về Bộ đội Cụ Hồ. Trong “Mắt người giữ đảo” của Đoàn Văn Mật, chi tiết con tàu KN628 bị đâm va 13 lần, có những lúc tưởng chừng như đã vỡ vụn mà vẫn vững vàng, hiên ngang trước sóng, trước gió, trước những sức mạnh vượt trội để thực thi sứ mệnh bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng đã toát lên tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” được hun đúc ngàn đời nay của những người lính hải quân anh dũng, kiên cường. Sự nhanh trí, sáng tạo, tình quân dân cá nước gắn kết với đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên của bộ đội được Nguyễn Mạnh Hùng tái hiện trong “Những cánh rừng mang hình đất nước” bằng chi tiết Thượng úy, y sĩ Nguyễn Bá Danh đỡ đẻ cho các bà bầu bằng… vỏ thùng mì tôm cho hợp với quan niệm về chửa đẻ của họ. Hình ảnh người lính đang trên đường ra Bắc dưỡng thương Cao Xuân Khuê “thèm thuồng mút tí vụn trứng đang dính trên tay” nhưng vẫn nhường hai quả trứng luộc cho người đồng đội không quen biết đang bị cơn sốt rét rừng hành hạ trong “Phía sau chiến tranh” của Cao Khoa gợi lên tình đồng chí bình dị mà cao cả của người lính trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ. Đinh Phương làm nổi bật sự gan dạ, dũng cảm của người lính Nguyễn Mộng Điệp trong “Người Cô Tô” khi miêu tả anh bình tĩnh nhặt “hằng hà sa số mìn còn sót lại trong chiến tranh bị gió, nước đẩy lên sân, nằm lăn lóc như những quả bưởi” để tránh cho gia đình và hàng xóm khỏi hiểm họa khôn lường.
Song song với những chi tiết tưởng như chỉ có trong điện ảnh, các bài bút ký trong “Sống như một dòng sông” còn hấp dẫn bạn đọc bằng những thủ pháp nghệ thuật tinh xảo, điêu luyện. Thủ pháp đồng hiện thời gian được các tác giả: Hồng Vân, Nguyễn Khắc Nguyệt xử lý nhuần nhuyễn trong các bút ký “Sự bất tử của một địa danh”, “Tuấn mã sứt môi”. Các dòng thời gian quá khứ, hiện tại đan xen tuần tự, đưa người đọc lúc đến vùng ký ức sâu thẳm, lúc trở về với hiện thực đời thường của những người lính từng đi qua chiến tranh. Bút pháp dòng ý thức, khắc họa nội tâm cũng được các tác giả sử dụng một cách triệt để. Vui, buồn, đau đớn, khắc khoải, nghẹn ngào, chua xót, nhung nhớ… bấy nhiêu cung bậc cảm xúc của người lính, từ những vị tướng dày dạn trận mạc như Trung tướng Phùng Khắc Đăng trong “Những mảnh ký ức thắp lửa” của Nguyễn Hữu Quý, những người lính bình thường như các nhân vật xưng tôi trong “Trở lại 1015” của Nguyễn Trọng Luân, “Bạn bè một thuở” của Đỗ Văn Nhâm… hiện lên đong đầy theo con chữ làm bạn đọc không khỏi xúc động. Tâm tình của người lính với Tổ quốc, đồng đội, gia đình bao giờ cũng chan chứa, thủy chung như con nước đầu nguồn không bao giờ cạn.
Một yếu tố nữa làm nên sức hấp dẫn không thể không kể đến của các bài bút ký là nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đặc sắc. Thiên nhiên, cảnh sắc đất nước qua sự dụng công, dụng bút của tác giả hiện lên với vẻ đẹp say đắm lòng người. Biển nơi đảo xa với “những chú cá heo bóng nhẫy, uốn cong tấm lưng như nghệ sĩ uốn dẻo nhô lên mặt biển… Gần bờ, nước nông, ánh lên sắc biếc như cầu vồng dưới mặt trời chói chang” trong “Quê tôi ở Trường Sa” của Đỗ Bích Thúy. Sông nước, ruộng đồng miền Nam mênh mang, trù phú trong “Trở về nghe sông núi” của Hoàng Thị Trúc Ly: “Mùa này điên điển dọc theo bờ ruộng nở bông vàng rực soi bóng xuống mặt nước dập dềnh… cánh đồng ngút ngát một màu xanh thanh xuân, cây lúa uốn lượn theo đường biên mềm mại như mái tóc của nữ thần bầu trời mơ màng xõa xuống dải biên cương Tây Nam Tổ quốc”.
“Hóa ra chỉ hy sinh mới đủ sức gọi hy sinh. Chỉ lòng người ngọt lành sáng trong mới đổi được những gì liên quan đến máu thịt”, Võ Diệu Thanh đã viết như thế trong bút ký lấy làm nhan đề tập sách. Và chỉ có những nhà văn, nhà báo thật sự yêu người lính mới tình nguyện đi cùng người lính trên suốt cung đường gìn giữ, bảo vệ Tổ quốc yêu thương, mới viết về họ một cách đắm say với tất cả tài năng và tâm huyết. Có thể nói “Sống như một dòng sông” là tập bút ký về người lính được viết bởi những nhà văn thấm đẫm chất Bộ đội Cụ Hồ.
ĐOÀN MINH TÂM