Trong lịch sử thi ca nhân loại, những đại thi hào, những thi sĩ lừng danh đều cho thấy tài năng và sự đam mê của họ. Từ Goethe của Đức đến Puskin của Nga, Baudelaire của Pháp, Whitman của Mỹ, Basho của Nhật, Lý Bạch của Trung Quốc, Nguyễn Du của Việt Nam,… thi ca đã chứng minh sự vĩ đại của nó trong việc bày tỏ thế giới tinh thần con người. Cũng từ thi ca, những thi sĩ trở nên bất tử, trở thành biểu tượng của nghệ thuật, biểu tượng cho vẻ đẹp của tinh thần và ngôn ngữ. Trong phút giây thần khải, người ta nhận ra, thơ chính là mật ngữ được các vị thần ban phát cho loài người trên môi thi sĩ.
Chính trong khi nhìn nhận thơ như mật ngữ của thánh thần, thi sĩ như một sứ giả nối kết loài người với siêu nhiên, thơ nằm trên chót đỉnh của tháp giá trị tượng trưng. Nghĩa là, trong thang bậc giá trị nghệ thuật, thơ đứng đầu tiên. Điều đó đem đến sự ngưỡng vọng của con người đối với thơ và thi sĩ. Nói cách khác, vị trí của thơ tạo cảm hứng về vị trí của cá nhân trong thang bậc, trật tự cộng đồng-xã hội. Nói đến thơ là nói đến giá trị tinh hoa, tinh túy và nhắc đến thi sĩ là nhắc đến một dạng đời sống khác biệt, được tôn vinh trong tâm thức cộng đồng (chúng ta hiểu những vị thế và giá trị này theo cách hiểu của P.Bourdieu-mang tính tượng trưng). Ngay tại đây, câu trả lời cho thực trạng “bùng nổ” thơ và nhà thơ hiện nay có thể được tìm thấy. Khi cá nhân có tài và đam mê, khao khát biểu lộ thế giới tinh thần của mình dưới dạng thơ, chúng ta có thi sĩ,… Nhưng, vì sự ngưỡng vọng các giá trị tượng trưng, nhiều người đã tìm đến thơ, nhằm tìm kiếm danh vị trong cấu trúc thang bậc xã hội. Ngưỡng vọng đến một giới hạn nào đó sẽ mang màu sắc của tham vọng, đưa con người đến ảo tưởng. Họ-những người tự cho mình là nhà thơ dường như không mấy khi ngoảnh lại để hiểu rằng, thánh thần chỉ chọn một số ít trong tất thảy loài người để gửi gắm những lời huyền bí. Những tham vọng, dẫu là chính đáng, dẫu nó cho thấy khát vọng hướng thượng của loài người, nhưng không đồng nghĩa với việc mang về cho chúng ta những sản phẩm thơ giá trị. Chúng ta có nhiều người làm thơ mà ít thi sĩ, có nhiều cái giống thơ mà ít thi phẩm cũng vì thế.
Sự bùng nổ của thơ được dung dưỡng bởi sự phát triển như vũ bão của các phương tiện truyền thông. Tuy nhiên, một điều rất đáng bàn chính là việc hầu hết các kênh truyền thông này không có người biên tập, hay đúng hơn là không có một "người gác cổng" xứng tầm và thực sự can đảm. Nhớ lại, thời Thơ mới 1932-1945, trên tờ Phong hóa-Ngày nay của Tự lực văn đoàn có mục “Tin thơ”, là một mục quan trọng chiếm dung lượng lớn của báo. Tại đây, Thế Lữ bình chọn, phân tích, diễn giải, sửa chữa thơ của các tác giả gửi về báo. Điều đáng nói chính là dường như không có một tác giả nào không bị người phụ trách mục “Tin thơ” phê phán. Điểm qua mục này có thể thấy Thế Lữ phê bình: Tchya-rỗng nghĩa (NN, số 71, 8-8-1937); Xuân Trâm-lười, chưa dụng công, dùng từ còn rẻ; Anh Sơn-dùng từ mộc mạc, đại khái; Bảo Trúc Sơn-khô khan, buồn cười (NN, số 83, 31-10-1937); Lê Thiếu Tâm-mộc mạc, vụng về, cẩu thả, ngượng ngập (NN, số 84, 7-11-1937); Minh Thu-biếng nhác quá, Tường Đông-rời rạc, ngượng (NN, số 86, 21-11-1937); Nghoai (sic)-dễ dãi quá, viết những điều thậm chí vô ích, cẩu thả (NN, số 87, 28-11-1937); Mạnh Quang-dễ dãi, hững hờ quá, mộc mạc quá, mất cả ý nhị (NN, số 88, ngày 5-12-1937); Tống Minh Cầm-cẩu thả, trễ nải, tối tăm và hỗn độn (NN, số 89, 12-12-1937)… Và rất nhiều tác giả khác cũng bị phê phán như: Phạm Quy Hòa, Ngọc Hương, Diệu Thường, Mai Khanh, Trần Tử Hạ, Nguyễn Vân, Nguyễn Đình Huệ, Anh Lang, Ái Quốc, Vân Quân, Ngọc Minh, Lệ Mai, Ngọc Đoan, Hồng Oanh,… Có lẽ, sự phê phán thẳng thắn này là một nhân tố giúp cho những cá nhân xuất sắc như: Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Anh Thơ,… tỏa sáng trên diễn đàn thơ danh giá Phong hóa-Ngày nay. Một thời đại trong thi ca cũng nhờ đó mà hình thành, ghi dấu trong lịch sử văn học dân tộc như một trong những giai đoạn rực rỡ nhất. Nếu có một tờ báo, một diễn đàn văn học đương đại nào hiện nay làm được việc như Thế Lữ đã làm trên Phong hóa-Ngày nay, tôi tin rằng, người làm thơ sẽ phải cân nhắc trước khi gửi tác phẩm của mình đến những địa chỉ như thế.
Người ta làm thơ vì tài năng và đam mê, hẳn nhiên đó là điều lý tưởng. Nhưng, từ vô thức, ngưỡng vọng danh vị bậc cao trong thang bậc giá trị của cộng đồng đã đưa nhiều người đến với thơ. Người ta lựa chọn thơ như một cách thức bày tỏ giá trị hiện hữu của mình. Dĩ nhiên, tham vọng này có phần ảo tưởng khi họ không được lựa chọn (thực chất là không có tài) nhưng lại là biểu hiện của số đông. Sự cổ vũ một cách không kiểm soát của các phương tiện truyền thông tiếp tay cho số đông này. Ở một hướng khác, người ta làm thơ như một cách thức bày tỏ, cứu rỗi chính mình. Thơ mang đến điểm tựa tinh thần cho con người cũng là một lý do rất chính đáng cho sự bùng nổ thơ ca. Tuy nhiên, nhìn sâu rộng hơn, một thi phẩm thực sự sẽ mang trong nó cả tài năng, đam mê, khát vọng hướng thượng và khả năng cứu rỗi loài người. Đó chính là hình thái hoàn hảo của hiện hữu thơ ca và giá trị của thi sĩ.
Tiến sĩ NGUYỄN THANH TÂM