Chúng tôi tới làng Mokhoskoy để từ đó sang bên kia sông Đông, nơi có một chiếc xe jeep đang đợi. Cách duy nhất để vượt sông là leo lên một chiếc thuyền nhỏ, đáy bằng đã hơi bị thủng. Tôi cùng người lái xe jeep sang trước. Chúng tôi vừa chèo vừa liên tục tát nước cho thuyền không chìm. Tới nơi, người lái xe jeep quay lại đón anh bạn đồng hành của tôi, còn tôi thì ngồi sưởi nắng và tận hưởng cái không gian tĩnh lặng bên bờ sông trong khi chờ đợi. Trong khi tôi đang tỉ mẩn đem gói thuốc lá bị ướt lúc sang sông ra phơi trên hòn đá to gần đó thì một người đàn ông cùng đứa trẻ chừng năm, sáu tuổi đi ra từ ngôi làng. Trang phục thằng bé trông giản dị nhưng rõ ràng là được may vá tử tế, tuy có vài chỗ bị là hơi sém và có chỗ được mạng lại hơi ẩu.
Người đàn ông tên là Andrei còn đứa trẻ là Vanya. Andrei mời tôi hút thuốc còn Vanya tha thẩn chơi quanh. Tôi và Andrei dễ dàng bắt chuyện với nhau vì cả hai đều đã từng chiến đấu trong Hồng quân Liên Xô. Và thế là trong khi chờ đợi anh bạn đồng hành, tôi được nghe trọn vẹn câu chuyện cuộc đời Andrei. Câu chuyện thế này:
Andrei sinh năm 1900. Anh tham gia Hồng quân trong thời kỳ nội chiến sau Cách mạng Tháng Mười. Năm 1922, anh tới làm thuê cho các phú nông ở Kuban, nhưng cả bố, mẹ và chị gái Andrei đều chết trong nạn đói năm đó. Sau đó, Andrei làm đủ thứ việc để kiếm sống trước khi trở thành công nhân cơ khí và làm đám cưới với Irina, một người phụ nữ dịu dàng và vui tính. Sau đó một thời gian, Andrei chuyển sang làm nghề lái xe, thu nhập cũng khá. Họ sinh hạ được ba đứa con. Cuộc sống cứ thế yên bình trôi qua.
Thế rồi chiến tranh nổ ra. Andrei nhập ngũ như tất cả những công dân Xô viết mẫu mực khác. Giờ phút chia tay thật không bút nào tả hết. Irina níu lấy tay Andrei hỏi: “Chúng ta có còn được gặp lại nhau nữa không anh?”. Khung cảnh đầy nước mắt ngày ra trận năm đó vẫn luôn như lưỡi dao sắc cứa vào tim Andrei.
Vào quân ngũ, Andrei lái xe tải chở đạn pháo. Năm 1942, trong khi đang chở đạn cho tuyến lửa thì xe anh bị trúng pháo tầm xa của quân Đức. Khi tỉnh dậy, anh bàng hoàng nhận ra chiến tuyến đã bị đẩy lùi về phía Moscow còn anh thì đang ở khu vực do Đức kiểm soát. Chẳng lâu sau, Andrei bị bắt làm tù binh và bị giải về phía Tây cùng một số chiến sĩ Xô viết. Tất cả bị dồn tới Poznan, Ba Lan. Ở đây, Andrei phải đào huyệt chôn những tù binh chết do kiết lị. Lợi dụng lúc lính gác không để ý, Andrei bỏ trốn, vượt 40 cây số trong bốn ngày nhưng rồi bị bắt trở lại. Lần này thì Andrei bị đưa đi làm những công việc nặng nhọc hơn ở nhiều nhà máy và khu mỏ trên khắp nước Đức. Đó là những ngày tháng cực khổ nhất của Andrei, công việc nặng nhọc và thường xuyên phải hứng chịu đòn, roi của lũ phát xít. Rồi Andrei bị chuyển tới một trại tập trung gần Dresden, nơi tù binh phải làm việc trong một mỏ đá. Công việc nặng nhọc và suất ăn thì ít đến độ chỉ sau hai tháng, trong số 142 tù binh, chỉ 57 người sống sót.
Một hôm, không còn nhịn nổi nỗi bực tức trong lòng, Andrei vừa làm vừa buông lời nguyền rủa lũ phát xít. Lời nguyền rủa tới tai Tổng quản giáo và ngay lập tức Andrei bị gọi lên gặp hắn. Viên Tổng quản giáo bảo: “Vì những lời nguyền rủa của anh, ta cho anh một ân huệ. Đó là được chết dưới nòng súng của ta. Ít ai được ân huệ đó lắm đấy! Nhưng trước tiên, hãy uống một ly shnapps này đã để chúc mừng chiến thắng của quân đội Đức”. Andrei nhất quyết không uống. Gã Tổng quản giáo lại bảo: “Vậy thì hãy uống vì cái chết của chính mình đi!”. Andrei chấp nhận, chiêu nhanh ngụm rượu như chẳng coi cái chết là gì. Tên lính Đức lại mời Andrei ăn bánh mì nhưng anh từ chối, viện lý do không bao giờ ăn sau ly rượu đầu tiên. Nhưng sau ly thứ hai Andrei cũng vẫn từ chối khiến viên Tổng quản giáo phải phá lên cười và quyết định sẽ không bắn Andrei vì hôm đó là ngày quân Đức chiếm được gần hết Stalingrad.
Nhưng quân Đức cũng chẳng kiêu ngạo được bao lâu và phải nhận kết cục cay đắng ở Stalingrad. Một hôm, khi chở một viên thiếu tá Đức phụ trách xây dựng các công trình phòng thủ tới gần Polotsk (Belarus), Andrei nhận ra tiếng đạn pháo của Hồng quân Liên Xô cách đó không xa. Tim anh thắt lại vì sung sướng. Ngay lập tức Andrei lập kế hoạch tẩu thoát. Anh giấu trong xe một ít dây thép và một thanh sắt. Đợi đến khi viên thiếu tá sơ ý, Andrei đánh bất tỉnh và trói nghiến hắn ta lại. Sau đó, anh lái xe chạy thẳng về phía chiến tuyến giữa lính Đức và Hồng quân Liên Xô. Chiếc xe chạy hết tốc lực giữa hai làn đạn: Đạn đuổi theo phía sau từ phía quân Đức và đạn quất trước mặt của Hồng quân Liên Xô. Cuối cùng, Andrei cũng vượt qua được chiến tuyến. Andrei nhanh chóng được thẩm vấn, được đồng đội xác minh thân phận, và được phát một bộ quân phục Hồng quân. Viên đại tá tiếp nhận Andrei tại mặt trận hết sức vui mừng với thành tích của Andrei: Bắt sống một viên thiếu tá phát xít cùng nhiều tài liệu quan trọng về các vị trí bố phòng của quân Đức.
Ngay lập tức Andrei viết thư cho Irina, kể hết những gì xảy ra với mình. Vài tuần sau, anh nhận được thư từ người hàng xóm. Biết có điều chẳng lành nhưng Andrei chẳng thể ngờ rằng vợ và hai con gái đều không còn nữa. Căn nhà của họ đã bị trúng bom. Andrei cũng được biết Anatolia-con trai lớn của Andrei, sau khi tốt nghiệp trường sĩ quan đã là đại úy chỉ huy một khẩu đội pháo binh và đã 6 lần được tặng thưởng Huân chương Chiến công.
Andrei ngay lập tức xin quay lại chiến trường, tiếp tục lái xe quân sự. Năm 1945, chiến tranh dần đi đến hồi kết. Từ hai hướng tiến công, hai bố con gặp nhau ở Berlin. Giây phút gặp lại Anatolia, Andrei đã mơ tới những ngày hạnh phúc bên con trai. Thế nhưng, số phận thật trớ trêu khi Anatolia ngã xuống ngay trong Ngày chiến thắng 9-5 bởi một viên đạn bắn lén. Andrei chỉ kịp thốt lên: “Vậy là niềm hạnh phúc và hy vọng cuối cùng của tôi đã bị chôn vùi trên nước Đức” trước khi ngã quỵ.
Trở về sau chiến tranh, Andrei chìm trong khổ đau và tuyệt vọng. Giải ngũ, anh không về nhà bởi nơi đó gợi nhớ quá nhiều kỷ niệm. Anh ở lại Uryupinsk, làm nghề lái xe tải, chuyên chở ngũ cốc và nhiều mặt hàng khác. Sau giờ làm, Andrei thường ghé qua một quán rượu để uống một ly vodka. Anh để ý thấy một thằng bé trong bộ dạng rách rưới thường quanh quẩn gần quán, sống lần hồi nhờ sự cưu mang của mọi người xung quanh. Đó là Vanya. Một hôm, Andrei rủ Vanya đi chơi trên xe tải của anh và hỏi chuyện về gia đình thằng bé. Vanya bảo: “Bố con hy sinh ngoài mặt trận còn mẹ con thì trúng bom, mất rồi. Giờ con chẳng còn ai thân thích”. Andrei vội đánh lái vào bên đường, một ý nghĩ lóe lên: "Tại sao hai mảnh đời cô quạnh không nương tựa vào nhau?". Anh nói mà hơi thở như nghẹn lại: “Bố đây con! Bố đã đi khắp nơi tìm con mà không thấy”. Vanya lập tức ôm lấy cổ Andrei, thì thầm: “Con biết mà. Con biết bố sẽ đi tìm con mà”.
Vanya về ở cùng Andrei từ đó. Họ sống hạnh phúc bên nhau một thời gian trước khi Andrei quyết định tới làm việc ở Kashary vì ở Uryupinsk đã hết việc làm. Có lẽ ngay cả khi vẫn còn việc làm ở Uryupinsk thì Andrei cũng sẽ rời nơi này bởi anh muốn đi thật xa và đi thật nhiều trước khi Vanya đến tuổi tới trường. Khi đó có thể anh và thằng bé sẽ tìm một nơi nào đó ổn định cuộc sống. Còn bây giờ, anh muốn đi bởi cứ ở nơi nào ổn định một thời gian, Andrei lại thường xuyên mơ thấy những người thân đã mất, nức nở trong đêm và mỗi khi thức dậy nước mắt lại đầm đìa trên gối.
***
Câu chuyện tới đó thì chiếc thuyền đáy bằng chở anh bạn đồng hành của tôi đã tới. Andrei cáo từ, cùng Vanya bước lên chiếc thuyền để sang bờ bên kia. Tôi nhìn theo, lòng quặn đau nhưng sâu trong tâm khảm là cả một niềm tin: “Hãy nhìn hai con người cô quạnh đó mà xem-hai hạt cát nhỏ bé trong cơn lốc chiến tranh... Rồi đây chẳng phải ai cũng biết được tương lai của họ sẽ ra sao, nhưng tôi tin rằng với ý chí của mình, người chiến sĩ Xô viết ấy sẽ không thể bị quật ngã. Lớn lên bên cạnh một người bố như thế, thằng bé sẽ trở thành một người đàn ông có thể chịu đựng mọi hoàn cảnh và vượt qua mọi khó khăn khi tổ quốc cần”.
Bỗng nhiên một nỗi buồn man mác dâng lên trong tôi. Đằng xa kia, từ phía bờ sông, Vanya quay lại trên đôi chân lũn cũn, nhỏ bé, vẫy vẫy bàn tay hồng hồng, nhỏ xíu về phía tôi. Đột nhiên như có một bàn tay mềm mại nhưng sắc buốt nào đó nắm lấy tim tôi mà từ từ bóp lại. Tôi vội vã quay đi! Không, những chiến sĩ Hồng quân tóc đã muối tiêu từng năm nào ra trận, họ không chỉ khóc trong những giấc mơ thôi đâu. Họ còn thổn thức mỗi khi choàng tỉnh dậy. Nhưng họ biết quay đi đúng lúc. Điều quan trọng là không được làm đau một trái tim con trẻ, không được để thằng bé nhìn thấy những giọt nước mắt hiếm hoi nhưng nóng rẫy trên má một người đàn ông.
Truyện ngắn của MIKHAIL SHOLOKHOV (Liên Xô, Giải Nobel Văn học 1965)
ƯU ĐÀM (dịch)