Sẽ có người cực đoan cho rằng, thơ vẫn còn đó trên văn bản! Văn bản là cứ liệu duy nhất có uy lực trong đời sống của thơ ca. Thế nhưng, bản thân văn bản thơ cũng chứa đầy hoài nghi, bất ổn. Trong số rất nhiều ấn phẩm thơ ca những năm gần đây, có một hiện tượng là các nhà thơ rốt ráo tìm tòi cách tân nhưng nội lực không có. Tâm hồn họ không đủ giàu có, phong phú để chắt lọc thành tinh chất. Chớp bắt được một ý tình nào đấy, trong một le lói sáng của thế nhân, nhưng các nhà “tác ngôn” ấy không đủ sức để sinh hạ một thi phẩm. Có thể, vừa bắt gặp, ta bị lôi cuốn bởi ánh kim lấp lánh, nhưng cầm lên, cân nhắc, ta mới vỡ lẽ và tẽn tò vì sự nông nổi của mình. Trong đời sống thơ ca hiện nay, chúng ta vẫn bắt gặp khá nhiều thứ giả kim ấy. Đến nỗi, hoài nghi là tâm thế chung của phần lớn độc giả khi đứng trước các “tác ngôn” gắn mác hiệu thơ cách tân.

Thơ là dạng hiện hữu của chất mới trong con người nhà thơ sau một quá trình dồn nén đến cực đỉnh về lượng. Thế giới quan, nhân sinh quan, cái riêng của cá nhân, cái chung của cộng đồng, dân tộc, thời đại phải được đào luyện trong bản thể để làm xuất hiện tác phẩm thơ như một lẽ sống, ứng xử nghệ thuật, ứng xử văn hóa. Sáng tạo là sự chưng cất toàn bộ con người nhà thơ được ngâm ủ bằng chất men của đời, làm nên thơ như là giọt say của cõi người. Có thể sẽ có thứ thơ model, nhưng để còn mãi với thời gian vẫn là những bài thơ làm say lòng người. Có nhiều cách thức để làm mới thơ, nhưng quan trọng nhất vẫn là những đổi mới về tư duy và mỹ cảm, cách thức tổ chức tác phẩm, các phương tiện tạo nên hình thức… Sẽ là hoàn bị hơn khi nhà thơ chú ý một cách triệt để đến nội dung của hình thức, hình thức của nội dung trong những cung bậc cao nhất của xúc cảm thẩm mỹ và tư duy thể loại. Để có được một tác phẩm nghệ thuật có giá trị, thiết nghĩ phải có sự hội tụ của các yếu tố: Cái tâm, cái tầm, cái tài của người sáng tác gắn với sự hoàn bị về vốn sống, vốn văn hóa và kỹ năng sáng tạo. Theo dõi sự phát triển của thơ ca Việt Nam những năm gần đây, chúng ta thấy hiện lên rất rõ công nghệ chế tác của không ít cây bút. Xin được nói thẳng là đôi lúc, tôi chẳng hiểu họ viết cái gì! Có những bài thơ ù lì, tăm tối như hũ nút, tịnh không một tín hiệu nào dẫn đến ánh sáng nghệ thuật. Nhân danh vô thức, tiềm thức, nhân danh sự tạo nghĩa của ngôn từ trong những ngẫu hợp bất định, các tác giả này cho ra đời những văn bản “vô nghĩa lý”, siêu hình hết mức. Thơ không phải là sản phẩm của tháp ngà, được trưng biện trong tủ kính, nó là cuộc sống với đầy đủ tính phong phú, đa dạng muôn mặt và thấm đẫm chất người… Đấy là cuộc sống ở tư thế của sự vận động phát triển hướng tới chân-thiện-mỹ. Thế rồi, đây đó có người hùa theo và nâng cấp thứ sáng tạo ấy lên thành nghệ thuật với lý thuyết cách tân đi kèm những xác tín mới về giá trị. Như thế là coi thường độc giả, coi thường thị hiếu thẩm mỹ của người đọc. Thách thức, tung hỏa mù, "làm xiếc" ngôn từ cũng là coi thường người đọc. Ta hãy nhớ lại những tác phẩm bất hủ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… Chẳng phải các tác giả ấy đã sống thật sâu sắc với cuộc đời và học tập rất nhiều từ ngôn ngữ đời sống của nhân dân hay sao? Giản dị mà ngân xa, những áng văn thơ ấy đã truyền đời qua rất nhiều năm tháng. Thơ mới 1932-1945 với những tên tuổi lừng lẫy làm nên cả “một thời đại trong thi ca” đã khẳng định được giá trị của mình sau nhiều thăng trầm, với sự đào thải khắc nghiệt của thời gian. Còn các tác phẩm thơ hiện nay, tôi không dám chắc sự tồn tại của nó sau hàng mấy chục năm nữa.

Dấn thân là thái độ tích cực, là nỗ lực đáng ghi nhận của các tác giả trẻ trong đời sống văn học những năm qua. Sự tận hiến cho nghệ thuật được xem như là đạo đức của nghề nghiệp, một phẩm chất nội tại, cần thiết của nhà thơ. Tuy nhiên, có cảm giác trong rất nhiều tác phẩm thơ, nhất là thơ của các cây bút trẻ, cái khéo, cái tinh vi của việc chế tác nổi bật hơn là những bùng nổ của xúc cảm thẩm mỹ, sự giàu có của vốn sống, vốn văn hóa. Cái mới, cái lạ là điều cần thiết trong sự cách tân của nền thơ ca có dấu hiệu già nua, cũ kỹ, khuôn sáo. Nhưng khi bắt đầu đời sống của một khách thể tinh thần đặc thù, những sáng tạo ấy phải phù hợp với thị hiếu công chúng, văn hóa, thời đại. Vẫn còn trong ký ức nhân gian những câu chuyện về các giá trị đi trước thời đại. Tuy nhiên, trong một khía cạnh có tính chất sống còn của cái đương hiện diện, nếu không có được sự tiếp nhận, thơ ca sẽ được hình dung như thế nào trong ngày nó sinh ra? Bởi thế, cái làm nên đời sống của thơ, để giữ thơ lại trong lòng nhân gian, có lẽ chính là nhịp điệu của đời sống, của mỹ cảm, của tâm hồn con người gieo vào câu chữ. Trạng thái ấy lược bỏ đi tất cả những hoa hòe, ngụy tạo, chỉ còn lại cấu trúc của tâm hồn rung ngân trên từng khoảng sáng-tối của văn bản, ngôn từ.

Sáng tạo là quá trình làm ra cái mới, không trùng lặp với những gì đã tồn tại. Chúng ta thừa nhận, sáng tác (nhất là đối với sáng tác thơ) là một hành vi ứng xử nghệ thuật. Viết như là giải thoát, giải tỏa, viết để tự nghiệm, tự đối thoại. Tác phẩm thơ hiện nay có thể được xem là một diễn ngôn mang tính cá nhân toàn triệt, nó không kêu gọi, hô hào, mà lặng lẽ tự thể hiện, lặng lẽ giao thoa những tương đồng về tâm tính, xúc cảm trong hoàn cảnh sống đa phức, hướng đến dân chủ. Nhưng một tác phẩm văn học có đời sống riêng của nó, nằm ngoài sự chi phối của tác giả. Vì thế, dù là diễn ngôn mang tính cá nhân cực đoan đến đâu, khi đã mang sinh mệnh của một khách thể tinh thần, tác phẩm vẫn phải được thể nghiệm trong dòng chảy khắc nghiệt của thời gian, sự lựa chọn nghiêm khắc của công chúng! Khi ấy, người sáng tác cần có cái nhìn phản tỉnh để nhận ra mình trong đời sống nghệ thuật của cộng đồng, thời đại, của quá khứ, hiện tại và cả những dấu hiệu của tương lai. Trong sự ngoái lại ấy, đằng sau câu chuyện cách tân, thơ ca rốt cuộc vẫn neo lại ở đó, giữa nhân gian như một hình thức tinh tế, cao kỳ của tâm hồn con người, với nhịp điệu, cảm xúc, sự ngân vọng của ý tình trong từng con chữ.

Tiến sĩ NGUYỄN THANH TÂM