Vào những ngày bấy giờ đang giữa tháng nắng to, nên biển Sầm Sơn đông như kiến và cũng thật khó khăn mới có một tấm phiếu vào nhà nghỉ mát lúc này. Không hề để chậm trễ nên ngay mờ sáng hôm sau, nghĩa là vừa đặt hành lý xuống, khoảng dăm chục người mới tới như một đợt sóng của đất liền đầy mệt mỏi hăm hở lao thẳng vào những cuộn sóng bạc đầu và xanh như pha lê. Bị kích động trước biển và nổi bật lên hơn hết là đám con cái đi theo bố mẹ. Tưởng như biển có một câu thần chú khiến những thằng con trai vốn quen sống ép mình giữa những bức tường nóng như lò thiêu người của thành phố trở nên ngây dại, chúng lăn xả ra khơi từng bầy, từng lũ đến lúc mất tăm khiến bố mẹ và những nhân viên cấp cứu phải xanh mắt.
Những đứa con gái thì cũng chả kém gì, đối với bọn này biển như một chất kích thích thực sự. Chúng mặc những bộ đồ tắm sặc sỡ. Chúng la hét, đùa giỡn vật nhau với sóng đến mệt lả rồi leo lên nằm như xếp cá trên bãi cát, ôm những chiếc phao cao su chụm đầu vào nhau cho các gã phó nháy bấm tanh tách, hoặc đi lang thang dọc mép sóng rồi bất ngờ tất cả lại mất hút vào một dải sóng to cao lừng lững vừa nhô bật bàn chân của chúng khỏi mặt đất.
Ra biển đến ngày thứ ba tôi vẫn chưa nhúng mình xuống nước. Ngay trong thành phố, tôi thuộc người có tính kỹ nước. Bao giờ tôi cũng dùng nước hết sức tiết kiệm và cũng phải nói thêm một điều nữa, cái thân hình của mình trốn lánh trong áo quần còn đỡ chứ đem phơi ra thì trông như một mớ da xương dúm dó, không thể nhìn được.
Hồi bấy giờ, tôi lấy cớ đang viết dở một cái gì đó để đóng cửa nằm dài trong phòng, hưởng cái thú nhàn cư bên cạnh bờ biển đã lấy làm toại nguyện lắm, hoặc những lúc cao hứng, cũng mặc quần đùi áo lót đi ra bãi cát đứng ngắm.
Anh L, một thiếu tá ở cách phòng bố con chúng tôi hai phòng, một hôm chạy sang:
- Anh cũng phải đi tắm chứ?
- Vâng, vâng…
 |
Minh họa: Phạm Hà. |
Sống trong thành phố có người suốt đời mình gặp ngoài đường, gặp đến nhẵn mặt, đến lúc người ta vừa may một chiếc sơ mi mới hay vừa qua một trận ốm mình cũng biết, vậy mà suốt đời kể cả trong tình cờ chả có dịp nào để bắt tay nhau một cái. Cái anh L này đối với tôi là thế. Khéo có gần chục năm nay tôi vẫn cụng đầu ở ngoài đường, một người đàn ông có bộ râu quai nón lúc tốt um như cỏ mùa thu chỉ là một khoảng xanh mờ trên nửa mặt, mà cái lưng thì vừa dài vừa rộng, mặt mũi cúi gằm trên xe đạp lúc nào cũng nghiêm nghị, thậm chí đôi khi trên đường buổi chiều trở về nhà trông khó đăm đăm. Ấy vậy mà kéo nhau vào đây gặp mới biết, là một con người đến là dễ mến và lại còn có giọng hát nghe hay đáo để.
Chúng tôi ra đây giữa lúc đang có một tốp khá đông chiến sĩ Campuchia nghỉ mát. Tôi đã được thấy L nằm dài trên một cái phao để mặc cho nó trôi lơ lửng giữa biển và thật là một người mới tài ghê cơ chứ, anh hát một bài hát gì đó bằng tiếng Campuchia cho những chiến sĩ Campuchia nghe. Tôi không hiểu lời nhưng thiết tưởng cũng chẳng cần hiểu lời làm gì nữa, khi mà giữa khoảng im lặng của vô biên, giữa hai đợt tiếng sóng dào dạt, từ cái phao màu đỏ gạch trôi lơ lửng giữa trời và nước, dâng lên một giọng hát trầm và rất buồn của L. Trong giọng hát của anh, biển Sầm Sơn như cũng nghe được một cái gì rất đỗi bí ẩn của rừng trong mấy thế kỷ đã vùi lấp đền Angkor và giữa hai đợt sóng khác, là tiếng kêu của một đất nước bị hành quyết.
Tôi ngồi dưới tán dù có những mái trắng và xanh nước biển của người nữ y tá đen như cột nhà cháy đang trực cấp cứu. Ngoài kia, những tảng lưng và ngực màu nâu rắn chắc cứ lấp lánh dưới nắng. Những người lính Campuchia đang bơi quanh L như những con cá đang đón lấy từng tiếng hát trộn lẫn trong sóng biển mà họ đã nghe từ lúc còn nằm trên cánh tay mẹ.
Bỗng L rẽ những người chiến sĩ nước bạn, nhoài người bơi sải mấy nhát về phía bờ. Nháy mắt sau, người ta đã thấy L đang ngồi trên thềm cát khô, bên cạnh đứa con trai của anh. Một anh thanh niên mặt mũi ngây ngô, đờ đẫn, mặc chiếc quần đùi đỏ và chiếc mũ vải trắng có lưỡi trai. Tôi thấy L vắt một cánh tay từ vai bên này sang vai bên kia của thằng Kỷ, đang kể cho nó nghe một câu chuyện gì đó, câu chuyện chắc…
Tôi thấy anh hình như thuộc tạng người thích sống lủi thủi. Với một cách thức mạnh dạn rất tự nhiên mà lại lịch sự. L hỏi tôi:
- Cái tính thích sống cô độc có phải là thói quen hay là như bây giờ người ta hay nói bệnh nghề nghiệp của các anh không?
- Có lẽ thế-Tôi đáp không lấy gì làm chắc chắn lắm.
- Về phần tôi, tôi sợ sống cô độc lắm-L nói chậm-Tôi sợ chỉ có một mình. Anh có thể tưởng tượng được không, tôi đã ngồi không biết bao nhiêu năm ở trong rừng Trường Sơn chỉ có một mình? Thật ra thì trên cái tuyến đường dây điện thoại như anh biết đấy, kéo dài suốt từ Bắc chí Nam, ở mỗi trạm bao giờ cũng bố trí hai hay ba người, những quãng đường giữa hai trạm thường rất dài, hơn nữa, núi non hiểm trở, được ở với nhau một chỗ thì vui biết bao nhiêu-nhất là cấp trên bao giờ cũng yêu cầu chúng tôi nên ở chung để dễ sinh hoạt, giúp đỡ nhau; nhưng trong thực tế, tổ nào cũng tự xé ra, mỗi người bảo đảm một quãng. Quãng đường dây một mình tôi chịu trách nhiệm trong cái lần ấy dài đến gần chục cây số đường rừng. Mỗi lần làm công việc phát cây, chữa cột và kiểm tra định kỳ cũng phải đi mất một tuần. Đấy là chỉ kể những mùa nắng ráo, hanh khô chứ mùa mưa lũ, đi một chuyến kinh lý rừng thẳm có khi mất hàng tháng. Đi trên đường hay nằm khoèo ở lán trạm cũng chỉ một mình. Thậm chí cái tiếng nói chở đi trong sợi kim khí cũng toàn một dãy tiếng lóng “Đầu Ngô mình Sở” chẳng nghĩa lý gì cả, hoặc là những dãy con số… Tôi thèm nói chuyện quá, tôi thèm bên mình có người quá. Ngày bấy giờ tôi vừa cưới vợ xong thì đi B, lúc ra đi vợ đang có mang. Tôi tính ngày, tính tháng, thường nghĩ đến đứa con vừa ra đời ở nhà. Trong trí tưởng tượng của tôi, cũng chẳng biết vợ đẻ con trai hay con gái, nhưng tôi cứ quyết định rằng con trai. Cho đến năm thằng bé lên ba thì cái sự hình dung về đứa con đã cụ thể tới mức tôi nói khéo anh cũng chả tin được. Như thể nó đang sống với tôi y như đang ngồi bên cạnh tôi thế này.
- Vào thời kỳ nào?-Tôi hỏi L.
- Ngay thời kỳ chiến tranh chống Mỹ.
- Nghĩa là suốt cả cuộc chiến tranh?
- Có thể nói như thế. Suốt cả cuộc chiến tranh.
- Kể cũng hơi lạ nhỉ, chắc anh phải làm một công tác gì bí mật ghê gớm lắm?
- Trái lại, tôi chỉ làm một thứ công việc mà bất cứ một cơ quan nào dù chiến tranh hay hòa bình cũng phải có một người làm. Đó là gác máy điện thoại. Chúng tôi phải tuân thủ kỷ luật bí mật, một thứ kỷ luật quốc gia hết sức nghiêm ngặt. Đấy là một đường dây điện thoại đặc biệt chỉ có cấp tư lệnh miền trở lên mới được dùng. Tôi vẫn còn nhớ rằng trong một lần, có lẽ vào tháng 8 hay tháng 9 gì đó, tôi nhận được chỉ thị phải hạ đường dây xuống đất để giữ bí mật. Vì có nhiều triệu chứng bọn Mỹ sẽ đổ quân xuống ở một vài điểm trong vùng rừng của tôi; và có thể một tay tư sản Chợ Lớn đang dùng tiền mua chuộc một anh cán bộ mình. Chao ôi, giá tôi có một cái máy ghi âm, lời hay quá, mà lúc ấy diễn xuất thực quá!
Tôi thét lũ con đập mấy trái dừa rồi sau đó chúng tôi nướng mực uống rượu. Mới nhấm một ngụm nhỏ, L đã đỏ mặt.
- Lâu nay, trong các cuốn sách, các anh làm cho người đọc lầm tưởng đứng vững trước bom đạn, cũng có thể thực tế có chuyện như vậy.
- Nhưng thực tế đang là như thế-tôi cãi.
- Một mẫu người như đã được viết đi viết lại trong sách, các vở kịch. Nó thế nào ấy… Tôi muốn nói là không đúng sự thật.
- Trong đời tôi, cả hai loại thử thách ấy tôi đều nếm cả và tôi lại cũng đã nghĩ về chính mình đến nát óc.
Chung quy lại… Chung quy lại… Cái sống và cái chết vẫn là chuyện gay gắt nhất.
Anh ạ, con người ta đang đứng trước cái chết… lòng ham sống cũng như tính sợ chết của con người ta…
NGUYỄN MINH CHÂU (*)
(*) Trích từ nhật ký nhà văn Nguyễn Minh Châu (1930-1989) do gia đình nhà văn cung cấp