Ông Bàn Xuân Đông đã quá lục tuần, nhìn thoáng qua còn nét khắc khổ hằn in, tản bộ trước chúng tôi vài bước, theo nhịp chân ông buông những lời dặt dìu: Thiếu cơm ăn vì năm mùa mất/ Hạn kéo dài nương đất nẻ khô/ Gặt xong đổ thóc vào bồ/ Lưng lửng nửa bồ thóc lép thóc rơm… Ấy là “páo dung”, “páo dung” cũng có nghĩa là “ca hát”. Họ truyền nhau bằng những lời “páo dung” ấy để dạy dỗ con cháu làm người, làm đàn ông, đối xử với cộng đồng, với xã hội, với thiên nhiên. Đấy cũng chính là những mảnh linh hồn của người Dao, gọi lên tiếng lòng của tộc người có quá khứ thiên di đầy bất trắc…
Ông ngừng lời. Trước mặt chúng tôi đã là Nhà văn hóa Đồng Vàng (huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang). Cả đội văn nghệ của hai thôn Đồng Vàng, Cầu Mạ có mặt đông đủ đợi ông. Họ đều là người Dao Tiền. Một vài người phụ nữ xúng xính trong bộ quần áo truyền thống, trang sức nổi bật trên nền hoa văn ấy là những đồng tiền bạc. Theo quan niệm của người Dao Tiền, những đồng tiền bạc được gắn trên ấy sẽ mang lại nhiều của cải, cho gia đình no đủ. Còn đàn ông khoác trên mình áo thổ cẩm thêu hoa văn góc và hai dải áo trước ngực, quần đen đáy rộng. Khuôn mặt ai cũng hồ hởi được tham gia Ngày hội Văn hóa dân tộc Dao toàn quốc lần thứ nhất tổ chức tại tỉnh nhà với tiết mục "Lễ cấp sắc".
Lễ cấp sắc, một nghi lễ không thể thiếu để công nhận sự trưởng thành của người đàn ông dân tộc Dao. Ông Bàn Xuân Đông bảo: "Theo tiếng địa phương, cấp sắc được gọi là quá tang hay quả tăng. Quá (quả) có nghĩa là từng trải hoặc qua thử thách; tang (tăng) là đèn hoặc vật dùng để soi sáng. Có thể hiểu đó là người đàn ông trải qua lễ soi đèn, soi sáng. Theo quan niệm của người Dao, lễ cấp sắc là thủ tục không thể thiếu của đàn ông người Dao. Đối với người đàn ông dân tộc Dao được cấp sắc mới được coi là người đàn ông đã trưởng thành và có đủ thẩm quyền tham gia các công việc của cộng đồng...".
Theo truyền thuyết, xưa kia khi tổ tiên người Dao đang sinh sống trên các sườn núi, bỗng ma quỷ xuất hiện. Chúng giết hại dân, ăn thịt vật nuôi, phá hoại mùa màng. Ngọc Hoàng sai quân lính nhà trời xuống trừ họa giúp dân. Giết mãi không hết, Ngọc Hoàng liền kêu gọi người trần gian cũng phải biết tự cứu lấy mình. Nhưng vì người trần gian không có phép thuật nên hễ đánh là thua, vì vậy Ngọc Hoàng lệnh cho các vị thần tiên truyền phép thuật cho những người đàn ông làm chủ gia đình trong bản, rồi cấp cho một đạo sắc chỉ, phong thần để cùng với quân nhà trời xuống trần gian trừ yêu quái. Nhờ có sự hiệp lực giữa trời và người mà ma quỷ đều bị tiêu diệt. Từ đó, để đề phòng ma quỷ quay lại quấy phá, Ngọc Hoàng ban lệnh cấp sắc (quá tang) cho những người đàn ông để sẵn sàng giúp dân trừ họa. Lễ cấp sắc ra đời từ đó và lưu truyền đến tận ngày nay.
Lễ cấp sắc thường diễn ra vào dịp cuối năm hoặc tháng Giêng (âm lịch). Lễ cấp sắc có nhiều bậc: 3 đèn, 7 đèn và 12 đèn. Ông thầy trong lễ cấp sắc là thầy cao tay, ngày tháng cấp sắc được chọn rất cẩn thận, người được cấp sắc cũng phải thuần thục những nghi lễ trong các bản sắc. Buổi lễ cấp sắc có thể làm thủ tục cho một người hoặc vài người cũng được nhưng phải là số lẻ. Trước khi hành lễ, người cấp sắc phải kiêng khem như: Không được nói tục chửi bậy, không được quan hệ vợ chồng, không được để ý đến phụ nữ...
Trong mỗi lễ cấp sắc thường có 6 thầy cúng, gồm 3 thầy chính và 3 thầy phụ. Thầy chính thứ nhất (thầy cả) thường mặc áo tạo - loại áo thêu hình rồng và nhiều họa tiết trang trí. Thầy chính thứ hai mặc áo vàng. Thầy chính thứ ba mặc áo đỏ. 3 thầy phụ giúp các thầy chính mặc áo, thay áo trong quá trình thực hiện nghi lễ. Lễ thường diễn ra trong ba ngày, ngày thứ nhất lễ cấp sắc diễn ra ở ngoài trời; ngày thứ hai, người thụ lễ vào nhà để nghe thầy cả đọc các loại sách cúng, thầy cả đọc lệnh cấp sắc, lúc này, người thụ lễ đã trở thành con người mới cả về thể xác và tâm hồn. Sau đó, người thụ lễ được các thầy dạy múa như múa chuông, múa sa ma. Ngày thứ ba tiến hành lễ tạ ơn tổ tiên.
Quá trình ấy chứa đựng nhiều giá trị to lớn về ý nghĩa giáo dục, triết lý nhân sinh quan, hướng con người tới cái thiện, tới cội nguồn tổ tiên. Khi một thanh niên người Dao được tổ chức lễ cấp sắc cũng là dịp cộng đồng nghe lại lịch sử hình thành dân tộc mình, tạo nên sự tự tôn dân tộc, ghi nhớ công lao to lớn của tổ tiên, từ đó răn dạy mỗi người có cách sống sao cho xứng đáng với truyền thống tốt đẹp. Đó là sự hướng tới việc thiện, không làm điều ác, biết tôn trọng thầy, biết ơn cha mẹ, trung thực và giàu lòng vị tha... Những lời giáo huấn này được thực hiện bằng lời thề dưới sự chứng giám của thần linh, trời đất, tổ tiên và cộng đồng, dòng tộc. Quá trình làm lễ có nhiều bài hát, điệu múa độc đáo; trang phục, đạo cụ đa dạng, phong phú. Các điệu múa trong lễ cấp sắc rất đặc sắc, nó có sự đan xen, hòa quyện giữa yếu tố lao động trần thế và tôn giáo, thể hiện sự giao hòa giữa hai thế giới. Một trong những điệu múa đặc sắc, vui nhộn nhất tại lễ cấp sắc là điệu “dâng hương”, “múa rùa” hoặc phần hát “páo dung”, các ông già bà cả quây quần trên sạp lớn hát đối đáp thâu đêm suốt sáng… Vì những giá trị văn hóa đặc sắc, riêng có ấy, năm 2013, nghi lễ cấp sắc được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia-khuôn mặt ông Xuân sáng bừng sau lời kể.
Cùng chung tâm trạng với người dân tộc Dao ở các thôn, bản, ông Nguyễn Vũ Phan, quyền Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang, Phó trưởng Ban tổ chức Ngày hội Văn hóa dân tộc Dao toàn quốc lần thứ nhất, nói: "Chúng tôi chọn giới thiệu lễ cấp sắc là chọn vì giới trẻ. Tất cả những người đàn ông Dao đều phải qua lễ cấp sắc. Qua cấp sắc ấy ở lứa tuổi thanh niên là chủ yếu, họ sẽ được nhận những lời răn dạy của tổ tiên, Bàn Vương. Họ được chứng kiến, tham dự vào lễ cấp sắc đó và thấy được giá trị đó tốt đẹp như thế nào. Họ phải phấn đấu để xứng đáng là người của cộng đồng Dao, một cộng đồng đoàn kết, sống tốt với thiên nhiên và xã hội. Đó là những điều mà chúng tôi mong muốn lớp trẻ của người Dao tiếp thu được những điều đó để tiếp nối ông cha…".
Chúng tôi rời Nhà văn hóa thôn Đồng Vàng khi đã quá nửa điệu múa. Tiếng trống, chiêng, kèn đồng, thanh la vang lên âm âm một góc bản người Dao. Tôi thầm nghĩ: Mong rằng, ngày hội sẽ được duy trì nhiều năm nữa. Như một cách để hiểu hơn, để góp phần nâng niu, gìn giữ những giá trị tộc người qua bản sắc riêng biệt ấy…
Ghi chép của LÝ HỮU LƯƠNG