Làng Tiên nằm bên ngã ba của hai dòng sông, nhưng không một gia đình nào trong làng làm nghề chài lưới. Nghề chính của người làng Tiên là trồng rau muống và làm hàng xáo.

Hàng xáo, tức là đi buôn thóc về xát thành gạo, rồi giần sàng, chia gạo làm hai thứ: Gạo ngon và tấm, rồi chở đi khắp nơi rao bán.

Rau muống là đặc trưng trên cánh đồng làng, ngoài lúa, ngô, khoai, đậu. Suốt dọc ven bờ của hai dòng sông chảy qua làng, người làng Tiên biến chúng thành những ruộng rau muống tươi tốt. Sáng nào cũng như sáng nào, từ tinh mơ, những chiếc xe đạp thồ, xe máy chở những sọt rau đầy ngất từ cánh đồng bên sông tỏa về các ngả chợ. Ở đó, người tiêu dùng quanh vùng luôn chờ đợi họ.

leftcenterrightdel
Minh hoạ: Lê Hải. 
Mẹ tôi bảo rau muống làng Tiên non, ngọt nhất vùng. Đó là một, hai là cách người làng Tiên chăm chút cho bó rau muống, dù là một chi tiết nhỏ. Ba, bốn giờ sáng, những người làng Tiên ra đồng hái rau muống. Mỗi người mang theo một ngọn đèn dầu hay đèn pin. Nhìn từ xa, trên cả cánh đồng, những ngọn đèn như những chú đom đóm vàng trắng ngủ ngon trong sương sớm. Họ hái rau bằng tay, từng ngọn non một, rồi dùng những sợi rơm vàng được cắt gọn hai đầu bó rau. Rau muống làng Tiên ngọn ngỏ, trắng xanh, thân dày và giòn chứ không già chát như rau làng khác. Những bó rau xanh thắt rơm vàng không vướng cọng cỏ nào ấy khiến chúng đắt hàng. Vì thế, người làng Tiên nhanh chóng bán hết rau từ lúc sáng sớm và họ ngay lập tức tỏa đi các ngả để đong thóc, xát gạo làm hàng xáo.

Những bà hàng xáo làng Tiên luôn được những người nội trợ là công nhân các nhà máy, xí nghiệp trong vùng ngóng đợi nhất. Đó là vì gạo mà người làng Tiên đem bán luôn được sàng sảy sạch sẽ. Những hạt gạo đều tăm tắp, căng mẩy, hiếm có hạt vỡ đôi, không vướng trấu, đầu mày hay sạn. Vì gạo xát mang về, các bà hàng xáo làng Tiên lại ngồi cặm cụi nhặt sạn, sàng trấu dưới ánh đèn điện vàng vọt.

Cổng làng Tiên có hai cây xoài lớn tỏa bóng xum xuê xuống mái đình rêu xanh điểm dày trên mái ngói nâu trầm. Buổi chiều nào cũng vậy, những cụ già làng Tiên lại ra sân đình uống trà với nhau, vừa trông cháu chắt, vừa đọc cho nhau nghe những bài thơ mới…

Những năm đi xa làng, hình ảnh người làng Tiên sáng sớm tinh mơ chở rau muống tỏa đi các ngả đường vẫn vẹn nguyên trong ký ức của tôi. Nếu có chút mờ phai, thì nó lại rất nhanh trở lại trong những lần ra chợ, phải mua những bó rau muống to đùng, mà người ta dùng liềm cắt ào ào rồi bó ào ào bằng sợ ni-lông xanh đỏ. Ban đầu, khi phải xách những bó rau như thế, tôi cảm thấy tự ái trào dâng, cứ như những mớ rau ấy chẳng giống rau bán cho người dùng gì cả. Mua một bó rau to về, lá già và cỏ chiếm phần không ít. Nhưng tự ái thì lại thiệt thân, vì cả chợ người ta bán rau kiểu ấy, tìm đâu ra những bó rau hái gọn gàng, tử tế, đầy tâm tình như những bó rau làng Tiên. Vì thế, mỗi lần mua rau thiên hạ, tôi lại nhớ rau muống làng Tiên. Nhớ cái sự cần cù, tận tâm của người làng Tiên đến vậy.

Và cũng lâu rồi không còn thấy các bà, các chị làng Tiên đi hàng xáo. Nhớ hình ảnh họ lầm lụi chở những bao gạo chầm chậm đi trong những ngõ vắng bờ tre xào xạc, chầm chậm rao: “Ai đong gạo, đong cám khô…ông…”. Bây giờ, gạo đong về nấu, trong gạo lẫn đầu mày thóc, đôi lúc là hạt sạn, lại nhớ những người phụ nữ làng Tiên đêm đêm cặm cụi sàng sảy mớ gạo mới thơm ngon để hôm sau giao đến cho người ta thổi những nồi cơm trắng ngần.

Tôi tự cho đó là một giá trị, và khi người ta dễ dãi với một giá trị thì bản thân giá trị đã không còn nữa.

Hai cây xoài tỏa bóng đình làng Tiên vẫn ở đó, các cụ già làng Tiên vẫn chiều chiều gặp nhau uống bát chè xanh và đọc những vần thơ do chính họ sáng tác. Nhưng nghề trồng rau muống và nghề hàng xáo đã không còn nên tôi chợt nghĩ, khi họ không còn làm nghề nữa, những chân tình bé nhỏ gửi vào từng mớ rau, hạt gạo cũng vĩnh viễn ở lại những ngày xa xưa ấy.

Tản văn của SONG NGƯ