Nhưng đó là những con số, những khoảng cách ít ra còn tính được. Còn sự lùi lại của một đất nước và sự hữu hạn của đời người thì có ai tính được, và có ai còn tính? Từ Hà Nội vào hơn một giờ bay/ Đất nước phải đi mất hai mươi năm/ Lớp cha trước/ Lớp con sau/ Từ cổng nhà mình đến Sài Gòn đổi hai màu tóc. Bởi vì Sài Gòn khi ấy là trung tâm của chính quyền Mỹ-ngụy, chỉ có đặt chân lên đất Sài Gòn chúng ta mới giải phóng được miền Nam, thống nhất đất nước. Nguyễn Đình Thi cũng viết Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn, Chính Hữu viết Cả nước với miền Nam đêm nào cũng thức. Còn Nguyễn Minh Khiêm đau đáu: Anh đã mơ thấy cửa ngõ Sài Gòn/ Sài Gòn ơi là mơ hay thực/ Thư nào gửi hậu phương cũng sắp tới Sài Gòn... để rồi sau tất cả: Nắng Sài Gòn cứ bần bật rung lên.
Quan tâm đến điểm nhìn của tác giả hay nhân vật trữ tình thì người đọc có thể thấy rõ ngôn ngữ kể chuyện trong Ba mươi tháng tư. Với trường ca hiện đại thì đây là một đặc trưng. Yếu tố cốt truyện không nhiều mà nhường chỗ cho những xúc cảm riêng tư nhưng có lẽ chính vì vậy mà người đọc có thể lắng nghe được một tiếng nói khác. Tiếng nói ấy là riêng lẻ với đám đông hô hoán, đồng nhất ngoài kia nhưng đó lại là tiếng nói của sâu thẳm mỗi người, của phần tâm thức nên nó mạnh mẽ hơn. Và dù có thiên về tính chủ quan như những trường ca trữ tình nhưng có lẽ cũng qua rồi thời đại của những tác phẩm là phát ngôn cho cộng đồng, công chúng. Văn học đương đại cho nhà văn cái quyền được nói một tiếng nói riêng, kể một câu chuyện khác. Nguyễn Minh Khiêm với chỗ đứng lịch sử của nhân vật trữ tình cũng mang đến một mảnh ghép lịch sử. Mà ở đó đã phản ánh đúng một hiện thực khách quan và chủ quan của đời sống. Nhưng anh biết một chùm quả chín/ Có bao nhiêu chùm quả đã rụng rơi. Thế nên khi làm cuộc điểm danh đồng đội còn mất, nhớ lại những địa danh như thể đã vĩnh viễn bị chiến tranh chôn vùi xóa sạch sự sống, tác giả chùng xuống, cúi mình tưởng niệm: Những cái tên thôi ghì xuống cũng cong chiều.
Nguyễn Minh Khiêm đã tìm được một cấu trúc hợp lý cho trường ca Ba mươi tháng tư với các chương lần lượt như một sự hồi tưởng và dẫn dụ. Nắng Sài Gòn, Phút đầu tiên với cỏ, Rừng vọng, Gảy đàn cho những nấm mộ, Ngõ nhỏ, tên các chương mục đã gây được sự hình dung lớn và phần nào giới hạn được người đọc trong một chừng mực nhất định bởi vì bản thân tên của tác phẩm đã gợi ý nội dung nhưng không vẽ nên hướng đi của nó. Đó là hướng đi của tâm tưởng, của ký ức, của một thế hệ đã bước qua chiến thắng để thấy niềm vui giản đơn như việc từ con ngõ nhỏ tiễn ta ra đi, rồi cũng con ngõ nhỏ đón ta về.
Nếu giọng điệu và cấu trúc văn bản làm nên tác phẩm thì cũng có thể hiểu đơn giản, đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa nội dung và hình thức. Trong một chỉnh thể nghệ thuật, thật khó phân biệt hay tách rời chúng. Như lý giải này thì sự nhuần nhuyễn trong ý tưởng và ngôn ngữ biểu đạt đã làm nên hiệu ứng xuyên suốt và cảm hứng mạnh mẽ cho trường ca Nguyễn Minh Khiêm. Chiến tranh, bằng sự hủy hoại và nham nhở có cho con người xóa đi dấu vết của nó? Ngay khi người lính trở về sau chiến thắng, gặp lại người mẹ và ngôi nhà thân yêu, anh nhận ra Hoàng hôn lõm phía trong liếp cửa. Hay: Phút đầu tiên ca khúc khải hoàn/ Anh ngả mình lên cỏ, chỉ khi ấy người lính mới nhận ra sự sống thực sự và cái chết là một lằn ranh rõ rệt, và lằn ranh ấy có lẽ chỉ có cỏ mới thấu hiểu và chia sẻ: Lần đầu tiên anh khóc/ Nhớ lại khi chôn bạn giữa rừng/ Không có cỏ để mà đắp mộ/ Khắc vào cây rừng đánh dấu rồi đi/ Bao nhiêu đồng đội xanh vào màu cỏ. Có lẽ trong phút giây vỡ òa vì chiến thắng, cờ hoa mải mê tung bay, chỉ có cỏ âm thầm chôn cất vỗ về nỗi đau và hồi về quá khứ một cách gần gũi, nguyên lành nhất. Tác giả đã dành riêng một chương để viết về cỏ bằng sự hồi sinh, bằng những nỗi đau và niềm hạnh phúc ẩn giấu hay nương náu đâu đó trong cỏ.
Nghệ thuật và thực tại giống như một cách nói khác đi của câu thơ Chày cối nằm hóp bụng quanh năm/ Được hạt cốm là cả làng nghe thấy. Để được nghe một tiếng chày giã cốm sao mà xơ xác, rạc rài đến vậy. Hình như Nguyễn Minh Khiêm đã gan ruột hơn hẳn khi viết về khía cạnh đời thường. Chẳng phải đời thường chính là đơn vị chính xác và tinh tế nhất để phản ánh lịch sử hay thân phận dân tộc đó sao. Thế nên cái kết của chiến tranh, của ngày chiến thắng mới dài ra bởi làm sao ta kết thúc được đời thường, chấm dứt được nỗi đau, hay lãng quên được quá khứ. Bởi sau chiến tranh, nhìn đâu cũng thấy thiếu thắt: Nhiều đứa trốn vào khói hương đến giờ chẳng thấy/ Tóc mẹ bạc dưới khăn trùm mỏ quạ/ Hiện bờ tre cong xuống trước tuổi già/ Anh ngồi thừ điểm danh đồng đội/ Thấy thừa ra mấy đốt ngón tay...
Sự dài hơi của trường ca không ngoài mục đích hấp dụ người đọc bởi sự rộng lớn của đề tài, cái lớn lao của cảm xúc và một kiến văn sâu rộng được biểu cảm qua ngôn ngữ. Nhưng sâu xa hơn, trong mỗi tác phẩm, người đọc muốn tìm ra sự cô đọng. Và đằng sau nghệ thuật ngôn từ đó là một hình tượng, hay cao hơn, đó là biểu tượng. Trong những cuộc kiếm tìm chữ nghĩa, tôi không chắc nhà văn có vui hơn khi viết ra được điều mình tâm đắc, còn với người đọc thì nó cũng không khác một niềm khoái cảm khi gọi tên chính xác được điều mình cảm thấy. Đến bây giờ anh mới nhận ra/ Hai mươi năm cho một sợi dây phơi/ Vắt đủ thứ lên vẫn thừa thãi nắng... Vâng, đất nước ta đi suốt hai mươi năm không chỉ để đến Sài Gòn, để cắm lá cờ kiêu hãnh lên nóc Dinh Độc Lập. Mà hai mươi năm chỉ để cho một sợi dây phơi. Sợi dây phơi quần áo, dường như có mặt trong mọi gia đình, nhìn vào đó, ta có thể thấy được sự sum vầy, trọn vẹn hay khuyết thiếu của mỗi nhà. Nhưng qua đây cũng gợi liên tưởng đến thành tố văn hóa trong đời sống tâm thức của người Việt. Chúng ta đã đấu tranh không phải chỉ để giành lấy sự sống, sự tự tôn mà còn để giữ lấy sợi dây văn hóa gắn kết của dân tộc mình.
KIM NHUNG