Chân lấm lem bùn đất, mẹ tất tả về mở khóa cho con vào nhà. Mấy đứa con dâu thường nói khéo với mẹ, thôi thì mẹ vẫn giữ ruộng nhưng thuê người khác làm. Cuối vụ, họ để cho ít thóc đủ ăn là được. Những lúc ấy, mẹ chỉ cười xòa rồi cưng nựng vui đùa cùng mấy đứa cháu của bà…
Bác cả điện thoại cho tất cả 5 anh chị em trong nhà về bàn chuyện gia đình. Ai cũng hớt hải tưởng có chuyện gì xảy ra với mẹ. Khi mọi người đã ngồi vào đông đủ, bác cả mới nhỏ nhẹ: Anh em chúng ta có được ngày nay là nhờ mẹ. Bây giờ cuộc sống của mỗi người đều tạm ổn nhưng mẹ vẫn phải ở một mình làm ruộng vất vả. Tôi muốn 3 sào ruộng ở đồng Mẫu sẽ đem bán đi để mẹ an dưỡng tuổi già. Tôi sẽ đón mẹ về nuôi… Chủ đề vừa được đưa ra đã đón nhận nhiều luồng ý kiến khác nhau. Ai cũng muốn mẹ ở với mình. Nghe đám con tranh luận, mẹ ứa nước mắt: Mẹ còn khỏe ngày nào thì mẹ làm việc ngày ấy, mẹ quen ở quê rồi, các con không phải lo cho mẹ. Có gì mẹ sẽ điện thoại.
Mẹ chuẩn bị cho mỗi đứa 20kg gạo mới đó, nhớ mang về nhé. Mẹ là vậy, suốt cuộc đời vất vả, hy sinh vì các con. Ở tầm tuổi này mẹ vẫn lo cho các con từng miếng ăn giấc ngủ. Để rồi đêm về, một mình một bóng, mẹ vò võ với nỗi cô đơn. Tôi là người ở gần mẹ nhất nhưng cũng phải đi mất 5km mới về được với mẹ. Mẹ vẫn thường răn dạy: "Bỏ gì chứ đừng bỏ ruộng, phải tội với đất trời!". Làng này có hai cánh đồng: Đồng Dọc và đồng Mẫu. Đồng Dọc thì thấp hơn, mỗi mùa lũ về thường mất trắng. Lúc ấy mọi người trông chờ vào lúa ở đồng Mẫu, vì ở đó, địa thế cao hơn, đất lại tốt nên luôn được mùa…
Mẹ điện thoại bảo tôi về. Đúng lúc vào vụ chính thì mẹ lại bị ốm. Vợ tôi lo lắng: "Em không biết cấy đâu, anh động viên mẹ thuê người cấy nhé!". Về quê, dường như bao nhiêu mệt nhọc, nóng bức, bụi bặm nơi phố thị tan biến đâu hết cả. Chỉ còn tiếng chim hót véo von trong vườn cây ăn quả của mẹ. Tôi bước vào trong nhà. Một cảm giác cay nồng xông lên mũi. Căn nhà ngói năm gian này bao năm rồi vẫn vậy. Nó là nơi 5 anh chị em tôi ra đời, quây quần bên nhau. Gian bếp nhỏ mẹ vẫn để 5 chiếc nồi gang chuyên để nấu cơm. Mẹ thường hay kể: Lúc mới sinh anh cả, bố mẹ sắm nồi cơm số 8, đến khi 4 miệng ăn nữa lần lượt ra đời thì bố mẹ phải sắm đến nồi số 14 rồi 20, 24 và 30 mới đủ cả nhà ăn. Rồi các anh, các chị lần lượt lấy chồng, lấy vợ xa nhà, số nồi cơm cũng giảm dần: 24, 20, 14 và bây giờ có mình mẹ, mẹ chỉ thổi cơm nồi số 8. Dẫu có nồi cơm điện nhưng mẹ vẫn thường nhóm bếp nấu cơm bằng củi, bằng rạ. Lần nào về quê, tôi cũng cảm thấy ăn cơm thật ngon miệng. Mâm cơm chỉ có bát canh rau tập tàng mẹ hái ngoài vườn nấu với vài con cua đồng, bát cà muối xổi, đĩa trứng gà nhà đẻ ra, cơm thì nấu nồi gang bếp củi, có cháy vàng ở đáy nồi. Chỉ vậy thôi mà sao ăn ngon hấp dẫn chẳng kém sơn hào hải vị ở phố thị…
Không thấy mẹ trong nhà, chúng tôi ra vườn tìm. Không gian tĩnh lặng, thoang thoảng đâu đây hương hoa cau thơm ngát. Mấy chú gà con lon ton bám theo chân gà mẹ kiếm mồi. Thì ra mẹ đang lụi hụi hái lá trầu ngoài góc vườn. Mẹ vẫn giữ thói quen ăn trầu từ hồi còn trẻ, dù răng đã yếu hơn. Mẹ bảo, mấy hôm nay mẹ toàn mơ gặp các cụ về báo mộng. Mẹ sắm lễ ra thắp hương các cụ ngoài đồng Mẫu. Nhìn dáng mẹ hao gầy tập tễnh bước trên con đường quê mà lòng chúng tôi bùi ngùi đến lạ. Cánh đồng đang dần được bao phủ bởi màu xanh non lá mạ. Mấy chú cò không hiểu từ đâu đứng rỉa lông rỉa cánh trên hai ngôi mộ của ông bà nội. Thấy có người đến, chúng lượn bay sang thửa ruộng bên cạnh. Chúng tôi bày lễ ra trước mộ ông bà nội. Mẹ lẩm nhẩm khấn. Hương cháy được một nửa, mẹ quay sang nói với chúng tôi: "Sau này, nếu mẹ có khuất đi, các con hãy đưa mẹ về đồng Mẫu để được gần gận các cụ tổ tiên. Mẹ vừa nói, nước mắt tràn khóe mắt rồi len lỏi trên gò má đã nhăn nheo với nhiều vết chân chim. Từ đồng Mẫu nhìn về làng mới thấy rõ cánh đồng giống như vòng tay giang rộng ôm trọn, bao bọc ngôi làng nhỏ bé này từ bao đời nay…
Tản văn của DƯƠNG VĂN MƯU