Mười bốn gương mặt thơ được Lê Thành Nghị lựa chọn đều là những tên tuổi “quen thuộc” với bạn đọc nhiều thế hệ như: Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Thu Bồn, Nguyễn Đức Mậu, Anh Ngọc, Vương Trọng, Trần Đăng Khoa…
Là người làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu phê bình nhiều năm (ông từng giữ chức Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, Hội Nhà văn Việt Nam), Lê Thành Nghị ý thức rõ được những thuận lợi và khó khăn khi viết về những người thơ đó. Thuận lợi vì họ là những tác giả nổi tiếng, tác phẩm, tư liệu dễ kiếm, dễ tìm. Hơn nữa, nhiều người trong số đó còn là bạn bè, đồng nghiệp thân thiết nhiều năm trời nên ông nắm, hiểu rõ “tiểu sử” tác giả và “hoàn cảnh ra đời” của tác phẩm-những lợi thế “nho nhỏ” làm tiền đề cho việc phục dựng chân dung được hấp dẫn, sinh động. Do đó, đọc tập sách, thi thoảng chúng ta vẫn bắt gặp những đoạn trữ tình ngoại đề, những câu chuyện bên ngoài văn chương về tác giả mà Lê Thành Nghị nắm bắt được. Những trường đoạn đó, theo tôi đều nằm trong ý đồ của ông. Những đoạn trữ tình ngoại đề ấy có tác dụng vừa như một quãng ngưng, “giải lao” cho độc giả sau khi phải dồn sự tập trung vào những bình luận, phân tích, đánh giá, dẫn chứng… vừa làm nhiệm vụ chuyển ý một cách nhịp nhàng, sinh động. Khó khăn chủ yếu đến từ việc làm sao tìm được một lối viết cho riêng mình, tránh đi vào lối mòn của người đi trước. Và lúc đọc xong gần 400 trang sách, tôi nghĩ có lẽ ông đã tìm cho mình được một lối đi về của riêng mình khi viết các tác giả đã quá quen thuộc ở trên.
Đọc phê bình của Lê Thành Nghị có mấy cái thú. Trước nhất là cái thú được thưởng thức những câu văn hay, đặc biệt là phần kết. Sáng tác từ sớm, là chủ nhân của những tập thơ như: "Mùa không gió"; "Mưa trong thành phố"; "Sông trôi không lời"; "Khoảng giữa những giọt sương" nên phê bình của ông nhiều phần tràn ngập chất thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng như cách ông kết bài viết về thi sĩ Trường Sơn Phạm Tiến Duật: “Chỉ thấy, trong làn sương lãng đãng đang giăng trên mặt hồ kia, chẳng khác nào làn sương giữa đại ngàn xa ngái, có một chàng trai mũi khoằm cao gầy đội mũ sắt, giày “côxưghin” và dáng đi khá yểu điệu năm nào đang đến gần. Bóng người trong bóng núi. Anh như mang vào câu chuyện của chúng tôi cả Trường Sơn trong những câu thơ một thuở ai cũng thuộc” (trang 110-111). Những đoạn như thế này thật sự đã xóa tan cái định kiến 3K (khô, khó, khổ) về công việc viết nghiên cứu, phê bình từ trước đến nay mà để lại cái man mác trong lòng người đọc.
Một cái thú nữa khi đọc tiểu luận phê bình của Lê Thành Nghị là cái cách ông kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghiên cứu và phê bình trong một bài viết. Nghiên cứu và phê bình vốn là hai mặt của một bàn tay. Nghiên cứu thiên về lý thuyết, phê bình nghiêng về cảm xúc. Nghiên cứu là đánh giá mang tính chất lịch đại, phê bình là một lát cắt đồng đại… Bấy nhiêu những đặc trưng tưởng chừng rất khác biệt đó được Lê Thành Nghị kết hợp rất khéo léo trong những “chân dung thơ” mình vẽ. Bạn đọc sẽ cảm nhận rất rõ độ rộng (khảo sát kỹ lưỡng, toàn diện sự nghiệp văn học của các tác giả), độ sâu (nhận xét, đánh giá chính xác, tinh tế), độ trường (sức khái quát, tổng hợp về đời thơ của tác giả), độ mềm (sự bóng bẩy, mềm mại, uyển chuyển trong câu chữ), và độ hấp dẫn (khả năng dẫn dắt vấn đề) trong mỗi bài phê bình của Lê Thành Nghị, qua đó có những hiểu biết khá tường tận về cuộc đời và sự nghiệp của mỗi tác giả. Ví như khi viết về Trần Đăng Khoa, không chỉ bàn về thơ lúc ở độ tuổi “thần đồng”, Lê Thành Nghị còn bàn về giai đoạn trưởng thành và mảng ký chân dung, vốn không được bạn đọc phổ thông biết đến nhiều. Những nhận xét của Lê Thành Nghị về thơ “thần đồng đất Việt” có những chỗ rất đáng đọc như việc ông chỉ ra chất Lý Bạch trong thơ Khoa, và cho rằng “ngôn từ trong tay Trần Đăng Khoa như khối rubic có thể trở nên ma mị khác lạ ngay trong những từ rất bình thường” (trang 150) rồi dẫn ra mấy câu thơ để minh chứng cho nhận xét của mình: Những mùa đi thăm thẳm/ Trong mông lung chiều tà/ Có bao chàng trai trẻ/ Cứ lặng thinh mà già (“Đỉnh núi”). Phải là người sành thơ mới bình và dẫn được câu thơ như thế.
Thứ nữa, phê bình của Lê Thành Nghị còn chinh phục mọi người bằng một thái độ thẳng thắn trong việc nhận xét, đánh giá. Đây vốn là điều khó nhất của phê bình văn học. Cái tâm, cái tầm, cái tài của người viết đa phần đều bộc lộ ở đây. Như đã nói ở trên, trong mười bốn chân dung thơ này có những người là đồng chí, đồng nghiệp thân thiết nhưng Lê Thành Nghị không vì thế mà “cả nể”. Ông vẫn giữ thái độ khách quan, thẳng thắn trong câu chuyện “khen, chê” vốn đầy “nhạy cảm”. Với người bạn “cùng tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp, cùng là lính đường dây trong những năm chiến tranh", nhà thơ Anh Ngọc, ông cũng không ngại ngần chỉ ra rằng trong thơ Anh Ngọc vẫn có những câu thơ “thật thà, hồn nhiên”. Trở lại với trường hợp của Trần Đăng Khoa, sau những lời “có cánh”, Lê Thành Nghị đã dành hẳn hơn ba trang viết (trang 152-156) để bàn về những cái chưa được trong thơ của đương kim Phó chủ tịch Hội Nhà văn như ở đôi bài kết cấu còn lỏng, vẫn còn những bài thơ, câu thơ viết vội… Ông viết rõ ràng, thuyết phục với những lập luận và dẫn chứng cụ thể.
Với một người thuộc thế hệ sau như tôi, sự thành thực và bản lĩnh của ngòi bút Lê Thành Nghị qua "Bóng người trong bóng núi" quả là một điều rất ấn tượng. Và sau cùng, tôi trộm nghĩ rằng tập tiểu luận này sẽ còn gây ấn tượng hơn nữa với bản thân và bạn đọc nếu ở đôi chỗ, đôi nơi ông tiết chế ngòi bút, tập trung vào những luận điểm chính để thu gọn dung lượng bài viết lại vì ở thời điểm hiện tại, độc giả không chuộng việc đọc dài (dù là cần thiết) ngay cả với sáng tác chứ chưa nói tới phê bình.
ĐOÀN MINH TÂM