Vì có chuyên môn về y nên sau khi huấn luyện chiến sĩ mới xong, tôi được điều lên ban quân y trung đoàn giúp việc. Ban quân y trung đoàn có hai người, một đại úy bác sĩ trưởng ban, một chuẩn úy y sĩ trợ lý. Và thêm tôi, giúp việc, thủ kho, văn thư... Cả hai người thấy tôi kiến thức chuyên môn khá vững, nói năng được, bèn bảo: "Công việc trong ban cậu cứ tự mà làm nhé. Có việc gì khó khăn thì gọi chúng tôi!". Thế là từ cấp phát thuốc, xuống đơn vị kiểm tra phòng dịch cho bộ đội đến đi công tác trên quân khu đều do tôi làm cả, bởi đơn vị tôi trực thuộc quân khu.
Hôm đầu tiên tôi lên quân khu là đi lĩnh thuốc. Tôi phải đi trước, gửi báo cáo, duyệt dự trù, nhận hàng xong thì xe đơn vị lên đón chở về. Là vì hồi đó bộ đội ta thiếu thốn lắm, cả trung đoàn có vài cái xe tải cũ mà cứ nay hỏng, mai sửa...
Tôi mượn xe đạp của trợ lý, đạp xe từ đơn vị ở Tân Yên, qua Nhã Nam sang Phú Bình lên Gang thép rồi tới thành phố Thái Nguyên. Qua cầu Gia Bảy sang bên Đồng Bẩm, Núi Voi, nơi Bộ tư lệnh quân khu đóng. Đạp xe gần cả ngày ròng mới tới được. Nhưng trước hết phải vào Trạm 88, nơi đón tiếp cán bộ, sĩ quan về công tác ăn nghỉ rồi mai mới vào phòng quân y làm việc. Tôi vào trực ban, gửi lệnh công tác, báo cơm, nhận giường, tắm giặt, ăn cơm xong đi ngủ.
Sáng hôm sau, tôi ra trực ban lấy giấy ra vào Bộ tư lệnh làm việc.
Một cô gái mặc đồ dân sự đang ngồi trước cái bàn nhỏ. Trên mặt bàn là đống giấy công lệnh. Ngăn giữa cô và đám sĩ quan từ các đơn vị về làm việc là một bức vách nhỏ bằng các thanh gỗ đan mắt cáo dày, có chừa một ô nhỏ để đưa giấy tờ. Hệt như nơi bán vé tàu xe vậy. Tôi tiến lại gần: “Đồng chí cho tôi xin giấy ra vào Bộ tư lệnh làm việc với phòng quân y”. “ Họ tên?”, “chức vụ?”, “cấp bậc?”. “Binh nhì”. “Cấp bậc???”. “Binh nhì!” “Binh nhì thì anh xin giấy ra vào quân khu làm gì?”. Cô nàng vừa nói vừa ngẩng mặt lên nhìn tôi cười cười. Nàng rất đẹp, mặt hoa da phấn, môi chúm chím đỏ như trêu ngươi... Tôi lúc đó trẻ nên có tính sĩ hão, nhìn xung quanh toàn sĩ quan úy, tá, quân hàm, quân hiệu sáng lòa, tôi thốt nhiên cảm thấy như cô nàng này cố tình hạ nhục mình. Tôi nổi xung quát to: “Cô có đọc công lệnh của tôi đấy không mà còn hỏi gì, hả? Cô có biết chữ không vậy?”. Thấy vậy, cô gái cụp mắt xuống, rơm rớm, lí nhí hình như nói điều gì. Nhưng mà tôi chả nghe thấy gì, còn định hung hăng quát tiếp. Một sĩ quan đeo quân hàm thiếu tá tiến lại gần tôi, ôm vai bảo: “Thôi đừng nóng thế, các em nó chưa biết thì bảo cho nó biết. Ta vừa trên biên giới Cao Bằng xuống đây còn chả hung như chú!”.
Tôi vào phòng quân y làm việc, nộp báo cáo, duyệt dự trù, mất cả một ngày. Tối về lại ngủ Trạm 88. Sáng sớm hôm sau, đạp xe tắt lối thị trấn Núi Voi, qua cầu treo Sơn Cẩm để sang tổng kho. Lĩnh thuốc xong thì xe đơn vị cũng vừa tới. Trên xe còn có vài tay trợ lý ở các ban trong sở chỉ huy trung đoàn cũng đi công tác trên quân khu, cùng đón xe về. Bọn tôi bốc thuốc, chất cả cái xe đạp lên thùng, phủ bạt kín lại rồi lên đường về đơn vị. Con đường từ tổng kho quân khu ra tới Quốc lộ 3 khoảng bảy, tám cây số gì đấy nhưng cực xấu, toàn ổ voi. Cái xe GAZ 51 cũ kỹ do tay Thuận lái xe lâu năm của trung đoàn phải dò dẫm từng mét đường, lượn quanh các thùng hố đầy bùn nước mà đi. Nếu chẳng may sa xuống một cái hố như cái ao đầy trên đường thì chỉ có nước ngồi khóc đợi xe khác đến cứu.
Thế nhưng tránh được ổ voi thì xe của chúng tôi lại thủng lốp! Tay Thuận cố lết cái xe già nua cũ kỹ vào vệ đường, dưới một rặng tre um tùm rồi hô quân xuống để cùng nhau xử lý. Trời đã về trưa, ý định chạy ra Quốc lộ 3 để ghé vào một quán phở, đổi gạo lấy phở thay món trưa nay tan biến... Cả bọn ngao ngán nhảy xuống xe. Thằng lấy kích, tuýp, choòng... cùng tay Thuận tháo lốp đem đi vá. Còn tôi và mấy tay khác lấy gạo, mắm, soong nồi ra, tính tìm chỗ nấu cơm. Lính tráng hồi ấy cực nghèo, phụ cấp rất thấp nên đi công tác xa thường mang theo gạo, mắm, tự nấu ăn là chính. Tôi chợt nhìn thấy ở phía đầu rặng tre có một cái quán nước nho nhỏ nép vào. Mấy thằng lính chúng tôi bèn lao tới đó. Một bà cụ tóc bạc phơ ngồi bán vài thứ bánh trái quê mùa. Khi chúng tôi ngỏ ý nấu nhờ bữa cơm, bà cụ đồng ý ngay. Bà cụ bảo: “Bà chả có gì cho các cháu, trong bếp có sẵn mắm muối và vại dưa, dùng được cái gì thì các cháu cứ tự nhiên nhé”. “Vâng ạ, bà cho chúng cháu nấu nhờ là tốt lắm rồi”. Sẵn nồi niêu soong chảo, bếp củi... nên chả mấy chốc chúng tôi đã nấu xong bữa ăn. Đời lính tráng nhiều khi còn phải đào bếp Hoàng Cầm, nấu ăn trong rừng, chứ thế này là còn sướng chán. Chúng tôi trải tăng, dọn cơm ra vườn nhà bà cụ, mời bà và gia đình dùng cơm lính. Bà cụ cười nói: “Các cháu ăn đi, bà cũng lên nhà ăn cơm, rồi đi nghỉ trưa”. Bà cụ đóng cửa quán lên nhà phía trên sườn đồi. Dưới bóng tre râm mát, bọn tôi ngồi ăn cơm ngon lành. Săm xe đã vá xong, cũng chỉ vài tiếng nữa là về đến đơn vị.
Dọn dẹp xong, cả bọn đang ngồi hút thuốc thì từ trên nhà có một cô gái đi xuống. Một tay cô bê bộ ấm trà bằng sứ trắng, một tay xách phích nước. Đến chỗ chúng tôi ngồi, cô nói: “Bà em bảo chả có gì cho các anh, vậy nên mời các anh ấm trà vườn nhà ạ”.
Đang ngồi hướng mặt ra đường hút thuốc, nghe giọng con gái quen quen, tôi quay lại... Trời! Chính là cô gái tiếp tân ở Trạm 88 sáng qua! Tôi ớ người ra, nhìn chằm chằm vào cô không hiểu. Pha xong ấm trà, đợi ngấm, cô mới ngẩng mặt lên. Nhìn vẻ mặt tôi lúc đó nên cô nhận ra ngay, kẻ đã nặng lời vô lý với cô.
- Em làm trong trạm kia mà?
- Vâng, em là công nhân viên trong trạm, làm theo ca, hôm nay là ngày nghỉ của em.
- Thế em vẫn đi về theo lối nào?
- Em đi tắt lối cầu treo Sơn Cẩm, gần mà.
Tôi chợt nhớ lúc nửa buổi sáng dắt xe qua cầu treo. Cây cầu được làm bằng những dây cáp xoắn khá lớn nhưng trên mặt lại lát bằng những thanh tre. Đạp xe đi trên đó vừa nảy vừa đảo như đưa võng. Tôi không đi quen đành dắt vậy. Có mấy cô gái đạp xe đi qua cười khúc khích khi nhìn thấy tôi rón rén dắt cái xe đạp vừa e dè nhìn xuống dòng sông. Một cô ngang qua còn trêu: “Đạp xuống sông bây giờ!”. Con sông Cầu nước trong xanh nhưng chảy khá xiết, lúc ấy trong đầu tôi bỗng nảy ra một ý nghĩ rồ dại, bây giờ tôi rơi xuống dòng nước, rồi buông mình ngửa mặt lên trời thả trôi xuôi, có khi một buổi là về đến bến sông quê tôi đó! Thật đúng là rồ dại, năm đó tôi mới có hai mươi ba tuổi. Khi người ta trẻ thường hay có những phút giây và những ý nghĩ điên rồ lạ lùng...
Cô gái rót trà ra những cái chén sứ trắng tinh. Hương thơm ngát của trà đưa lên dường như làm dịu cả trưa hè. Tôi đón chén trà từ tay cô gái. Một thứ nước óng ả xanh hơi pha sang sắc vàng. Tôi nhấp một ngụm. Một vị ngọt dịu dàng lan tỏa từ khoang miệng thấm xuống tận tâm can. Tôi chép miệng như ngài đại úy bác sĩ trưởng ban vẫn dạy, “rượu khà trà chép!”. Vị ngọt hậu sâu mãi không thôi...
- Trà nhà em ngon quá!
- Thì trà Tân Cương mà anh.
Thì ra tôi đang ngồi trên đất trà Tân Cương nổi tiếng. Thảo nào nước giếng trong mát, trà thơm và con gái thì dịu dàng, xinh đẹp. Lúc chia tay, tôi lấy hết can đảm, nói: “Cho anh xin lỗi vì sáng hôm qua đã nặng lời với em nhé!”. “Ô... không có gì đâu, chúng em làm ở bộ phận đón tiếp, chuyện ấy bình thường mà”. “Mà em tên là gì vậy?”. “Em tên là Miên Thảo”. “Anh sẽ quay lại thăm em".
Ngồi trên xe trở về đơn vị, tôi cứ lẩm nhẩm thầm trong miệng, Miên Thảo, Miên Thảo... Bỗng tôi chợt nhớ, hình như đây là tên một vị thuốc?
Chiều hôm ấy về tới đơn vị, tôi giở ngay quyển sách thực vật ra xem. Miên Thảo, hay còn gọi là Cỏ mê, tên của một loài cây vùng Nam Mỹ, trong đó có chất scopolamine giúp con người ta có thể giảm đau, trấn tĩnh do làm tê liệt thần kinh tạm thời. Nhưng đặc biệt, các thầy phù thủy của bộ tộc da đỏ xưa còn dùng làm thuật thôi miên. Miên Thảo có thể điều khiển con người ta hành động theo một cách vô thức... Tôi lấy làm lạ, tại sao ở một vùng sơn địa xa xôi nước mình lại có một người con gái được đặt tên là Miên Thảo? Một sự tình cờ hay chủ ý? Nhưng mà tôi hình dung lại khuôn mặt xinh đẹp hiền hậu tươi tắn của nàng, tôi nghĩ giá mà nàng dùng cái phép thuật của scopolamine để lôi tôi theo thì hay quá. Tôi sẽ làm nô lệ cho nàng phù thủy Miên Thảo xinh đẹp kia... Đêm ấy, tôi ngủ một giấc ngon chưa từng có, cứ như là tôi bị thôi miên vậy. Trong giấc mơ sâu thẳm mù mờ không rõ hình rõ tiếng của mình, tôi thấy mình như bị một khối mây ngũ sắc cuốn xoáy vào một cái gì đó mềm mại ấm áp, và trong đó hình như có văng vẳng tiếng người con gái, em là Miên Thảo, em là Miên Thảo...
Sau đợt ấy, đơn vị tôi bất ngờ chuyển quân lên vùng giáp biên giới phía Bắc. Tôi chuyển sang đơn vị khác, vào rất sâu trong núi. Tôi viết cho nàng một lá thư, hai lá thư, ba lá thư... Đề: “Gửi Miên Thảo, Trạm khách 88, Quân khu 1”. Rất lạ, không có một hồi âm. Tôi lại viết ba lá thư nữa, đề: “Gửi Miên Thảo, Tân Cương, Thái Nguyên”. Cũng không thấy hồi âm. Tôi nghĩ hay là Miên Thảo cũng như tên, chỉ là một giấc mơ phù phiếm... Rồi thời gian phủ bụi, dòng đời xô đẩy khiến tôi không còn để tâm đến Trạm khách 88, Tân Cương, Miên Thảo nữa.
Nhưng có điều từ đó trở đi, tôi không uống một loại trà nào, dù tây-tàu, âu-á, dù cao cấp hàng xịn đến đâu mà thấy lại được vị ngọt thơm mát dịu dàng sâu thẳm như chén trà Tân Cương mà Miên Thảo đã trao cho trưa nào.
Miên Thảo, em có thật không nhỉ?
Truyện ngắn của TRẦN THANH CẢNH