Tôi cảm nhận rất rõ cái lạnh nơi này, nơi mà ba mươi năm trước bố tôi đã viết trong từng trang nhật ký. Nhưng nơi này nhiều núi quá, không biết người con gái năm xưa trong nhật ký của bố đứng ở nơi nào. Tôi giục bọn trẻ về nhà kẻo trời tối, chúng cố nán lại sân trường chơi thêm một lúc mới lác đác rủ nhau về. Nhà tập thể của giáo viên ở ngay phía sau trường, tôi không vội thổi lửa nấu cơm như các thầy cô khác. Tôi ra suối ngồi, nước chảy nghe như giọng nói của người xưa, thầm thì, đồng điệu và thấu suốt. Biết đâu suối đang kể cho tôi nghe câu chuyện của bố tôi ngày trước thì sao. Hoặc là tôi tưởng tượng ra như vậy để nguôi ngoai cuộc tìm kiếm âm thầm.

          ***

Bố có lệnh lên biên giới khi tôi mới tròn ba tháng tuổi. Bố viết thư về hằng tháng, nhưng thư ấy chỉ có bà đọc rồi cẩn thận cất xuống đáy hòm. Mẹ dặm phấn điểm son hằng đêm rồi thản nhiên trao tôi lại cho bà để đến nhà hát trên chiếc xe sang trọng của một người đàn ông. Mẹ tôi là diễn viên của một đoàn nghệ thuật, phải chăng nghề diễn đã lấy đi ít nhiều cảm xúc của chính mẹ? Tôi không lý giải được điều đó ngay cả khi đã khôn lớn. 

Minh họa: Lê Hải

Thư bố về thưa dần vì những cuộc tuần tra dài ngày vào vùng sâu. Khi biết đọc, tôi đem thư cũ của bố ra đánh vần ê a. Đó là những bài học vỡ lòng của tôi. Mẹ đi qua bàn học, mùi nước hoa thoang thoảng vấn vít. Tiếng đọc của tôi chưa bao giờ làm mẹ dừng bước, mẹ đẹp và xa xôi, ngay chính tôi cũng không dám chạm vào mẹ. Rồi đến một ngày mẹ đi hẳn khỏi ngôi nhà cấp bốn xưa cũ trong lòng thành phố, sau ngày nhận được giấy báo tử của bố không lâu. Bà nội thở dài nhìn di ảnh bố, nước mắt người già lặn cả vào trong hay phai lên màu tóc, tôi cũng không biết nữa. Bà khẽ khàng thắp hương lên ban thờ, không biết bà nói gì mà tôi thấy bố khẽ mỉm cười bình thản sau làn khói trắng.

Đồng đội của bố đến thăm bà và tôi. Chú Khải, người mà sau này viết giấy giới thiệu tôi lên dạy tại trường tiểu học Na Phạ đã không giấu sự xúc động khi trao cho tôi cuốn nhật ký của bố. “Từ nhỏ cháu đã không được gần bố. Bố cháu mong rằng cuốn nhật ký sẽ giúp cháu hiểu bố hơn và trở thành người đàn ông mạnh mẽ...”. Chú Khải ở lại với bà cháu tôi hai hôm, lợp giúp chúng tôi mái ngói đã sụt ở phía sau nhà. Đêm Hà Nội ngày ấy yên tĩnh đến lạ, nằm bên chú, tôi nhắm mắt tưởng tượng đó chính là bố tôi. Giọng chú ấm trầm như bố đang thủ thỉ đưa tôi vào giấc ngủ.

          ***

Na Phạ có nhà A Tủa giàu nhất vùng nhưng đây cũng là vật cản lớn nhất mà đơn vị của bố phải đối mặt. Nhiều năm rồi, kể từ khi chiến tranh chưa kết thúc, nhà A Tủa đã trở thành nơi cất giữ tiền của cũng như lòng tin của bao đồng bào nghèo đói nơi đây. A Tủa lấy lòng tin của mọi người bằng cách bỏ ra một ít tiền để mọi người làm thuê cho hắn. Người trong vùng vì cái nghèo mà bất chấp hiểm nguy vượt biên sang bên kia đem ma túy về cho hắn, rồi cũng ma túy ấy hắn gieo rắc cái chết trắng cho bao trai tráng trong vùng. A Tủa cứ giàu lên, còn dân bản ngày càng kiệt quệ đi, càng giàu hắn càng siết chặt quyền lực của mình. Ai không phục tùng hắn khó lòng mà sống yên ổn ở Na Phạ.

Nhưng Mây, con gái A Tủa thì lại khác với cha mình, vẻ đẹp của vóc dáng và tâm hồn cô trong lành như dòng suối. Từ nhỏ Mây đã biết bao người bị cha làm khổ, mẹ cô đã chết trong một lần bị ép dùng ma túy quá liều. Mây hận cha vì điều đó. Mây âm thầm giúp đỡ mọi người, nhưng sức cô gái nhỏ lại bị cha quản thúc chặt chẽ không thể xoa dịu những tội lỗi của cha. Cho đến khi đơn vị của bố tôi lên cắm bản. Những lần lén cha đi nghe bộ đội nói chuyện khiến cô gái ấy cảm động và nguyện cùng những người lính đưa ánh sáng đến cho đồng bào bằng niềm tin của chính mình. Những lần trò chuyện đã khiến cô gái ấy yêu ông từ lúc nào, cho dù Mây biết bố tôi đã có gia đình ở dưới xuôi. Mây tìm thấy tình yêu ở nơi mà hai người đã bị ngăn cách bởi những ranh giới vô hình. A Tủa nhận ra sự đổi khác của Na Phạ từ khi bộ đội xuất hiện, hắn cảm thấy sự độc tôn của mình bị đe dọa. Như con mãnh thú không muốn mất đi vị thế của mình, hắn hậm hực oán thù. Biết được Mây có tình ý với người chiến sĩ biên phòng, hắn vội vã nhận lời gả cô cho đối tác làm ăn ở bên kia biên giới. Đám cưới của Mây cũng là cái cớ để chúng giao nhận hàng cấm, đó là chuyến hàng lớn nhất mà chúng muốn đưa qua biên giới. Kế hoạch ấy bị nhóm trinh sát của bố tôi phát hiện, cô Mây vờ đồng ý làm đám cưới để phá vụ án ma túy lớn nhất thời bấy giờ. Một cuộc chiến âm thầm nhưng khốc liệt đều được hai bên chuẩn bị kỹ lưỡng. Khi đoàn rước dâu chuẩn bị đi qua biên giới sang bên kia, nơi đầu nguồn con thác chảy vào suối Na Phạ thì tiếng súng vang lên.

Nhiều năm sau, người dân nơi đây còn nhắc lại câu chuyện đau lòng, khi những tên tội phạm ngoan cố đã đầu hàng thì bất ngờ A Tủa kéo lấy con gái mình để uy hiếp bộ đội. Vì chủ quan đó là cha mình nên Mây đã không đề phòng. Còn bố tôi, không chỉ vì tình yêu thuần khiết dành cho người con gái ấy, mà cả lòng tin của đồng bào nơi đây làm ông không do dự, ông đã đánh đổi mình để Mây được an toàn. Như con thú cùng đường, A Tủa kéo kíp thuốc nổ, hai thân thể tung lên rồi rơi xuống thác nước. Dòng Na Phạ ở nơi sâu nhất, nước chảy mạnh nhất đã nhấn chìm mọi vết dấu. Mây gào lên nhưng đã không kịp, tiếng thét của cô bị tiếng nước réo sôi nhấn chìm.

          ***

Những ngọn núi ở Na Phạ bây giờ bình yên tựa mình vào lưng trời, như sự vững chãi đời đời cho bao nhiêu kiếp người chọn neo mình vào núi. Đã ba năm đến đây dạy học, tôi vẫn không ngừng hỏi thăm tin về cô Mây, những người biết chuyện ngày đó đều nói cô đã bỏ đi bặt tin sau nhiều ngày không tìm được thi thể bố tôi và cha cô. Người cô yêu nhất và người ruột thịt nhất của cô đã tan vào lòng núi hay đắm vào lòng suối?

Tôi lớn lên, phần nào thấu hiểu hơn cho những lựa chọn của mẹ. Những trang nhật ký của bố hé lộ câu chuyện gán ghép năm xưa của ông bà hai bên. Bố là bộ đội từ miền Nam ra, mẹ là diễn viên nhà hát, họ đến với nhau vội vã như thể chiến tranh đã làm chậm mất một nửa cuộc đời. Để rồi họ rơi vào sự cô đơn khi không thuộc về cuộc sống của nhau. Không rõ bố có linh cảm điều gì không mà ở những trang nhật ký gần sau cuối, bố bày tỏ muốn giải thoát cho mẹ. Bố mãi yêu và thần tượng mẹ khi mẹ hóa thân vào những nhân vật đầy cảm xúc trên sân khấu.

Suối Na Phạ đoạn tôi ngồi êm đềm và trong suốt, như thể không biết đến những dữ dội, thẳm sâu nơi đầu nguồn. Trong bóng chiều nhập nhoạng, tôi nhận ra cô học trò nhỏ vẫn đang tha thẩn hái hoa bên bờ suối. “Lanh! Sao em còn chưa về, làm gì ở đó?”. Cô trò nhỏ giật mình ngẩng lên, trên tay cầm một bó hoa: “Em về qua bờ suối, thấy hoa linh sơn nở nên hái về tặng mẹ. Mẹ em rất thích hoa này. Không phải lúc nào hoa cũng nở đâu thầy”. Một ý nghĩ nhói qua tim tôi, hoa linh sơn. Loài hoa trong nhật ký bố tôi nhắc đến.

“Na Phạ ngày... tháng... năm! Linh sơn hiếm lắm mới gặp được trong đời, đó là hoa thiêng của núi. Không nhiều người biết đến hoa này, nhờ có em mình được chạm vào linh sơn. Linh sơn như thực như mơ, chạm vào đó mà như tan biến mất. Linh sơn và em đã làm nên vẻ đẹp cho nơi này. Nếu như mình có thể...”.

Tôi không biết lời dở dang bố định nói là gì, nhưng tôi hiểu linh sơn và người con gái ấy có vị trí đặc biệt trong lòng bố. Cô trò nhỏ nhắc đến linh sơn khiến lòng tôi không khỏi hồi hộp lạ thường. Cố gắng kìm nén điều muốn biết, tôi hỏi: “Linh sơn, sao lại có loài hoa tên lạ vậy em. Hoa đẹp thế này mà chưa bao giờ thầy gặp”. “Thưa thầy, mẹ em kể, linh sơn thường phải mười mấy năm mới nở một lần mà không phải ai cũng gặp được, và hoa chỉ nở khi Na Phạ sắp có một thay đổi hay biến cố lớn. Mẹ em gặp linh sơn nở từ ba mươi năm trước”. Chuyện của bố ba mươi năm trước hiện về rõ rệt trong tôi, bố hy sinh nhưng Na Phạ kể từ đó cũng không còn cảnh đồng bào phải khốn khổ vì ma túy và sự thống trị của A Tủa. Mẹ của Lanh cũng gặp linh sơn nở từ ba mươi năm trước, lẽ nào lại có sự trùng hợp ấy. Không kìm nổi lòng mình, tôi hỏi: “Mẹ em tên gì?”. Cô bé bối rối, ngạc nhiên nhìn tôi rồi nói: “Mẹ em tên là Vân”. Tôi nhìn xuống dòng Na Phạ bâng khuâng như vừa đánh mất điều gì.

Sau ba ngày mưa không dứt, Na Phạ như một vết thương khổng lồ bởi lũ ống và đất lở. Đây là đợt lũ lớn nhất suốt mấy chục năm qua, bộ đội biên phòng thông tin có  nhiều người chết và mất tích. Mưa ngớt, các thầy cô lao vào các bản xem tình hình gia đình của học trò sau lũ. Tôi đến nhà Lanh khi em và mẹ đang lúi húi dọn lại nhà khi nước rút. Tôi thở phào bước vào, đập vào mắt tôi là tấm ảnh người bộ đội được đặt trên ban thờ. Nụ cười, ánh mắt ấy nhìn tôi đầy yêu thương, trìu mến. Tôi đứng như chôn chân giữa nhà cho đến khi người phụ nữ luống tuổi bước lại gần. Nhẹ nhàng, thanh thoát như vầng mây trên ngọn núi Na Phạ, bà nhìn tôi. Đúng khoảnh khắc ấy tôi nhận ra trong mắt bà có điều gì như vỡ òa, tan chảy.

Truyện ngắn của HOÀI PHƯƠNG