Tôi gọi đó là cây ban lỗi mùa. Bởi lẽ, ban là loài hoa của tháng ba dịu dàng. Nhưng chẳng hiểu tại sao, cứ mỗi độ cuối tháng tư, đầu tháng năm, khi mùa hoa ban đã rã cánh từ lâu, như thể lỡ hẹn với thiên nhiên, cây ban này mới bắt đầu bung nở, trắng nao lòng trong nắng hè vàng đượm vài ba ngày rồi lặng thầm tàn lụi. Sắc trắng tinh khôi sáng lên trong khoảng thời gian ngắn ngủi da diết nhắc tôi hoài niệm về một trời khói đạn năm nào. Mảnh đất linh thiêng ấy đã giữ giùm tôi một phần tuổi thanh xuân nhiệt huyết. Năm tháng qua đi, ký ức vẫn thức trong trái tim nguyên vẹn như ngày nào…

***

Những chuyến xe thồ của đoàn dân công hỏa tuyến chúng tôi đến đèo Pha Đin thì nhận được lệnh nghỉ giải lao. Một bên vách núi cao chấp chới cỏ lau, một bên miệng vực sâu ngùn ngùn mây trắng. Đã sang đầu tháng năm mà thời tiết hãy còn bịn rịn cái rét se se. Đâu đó, trong những vòm cây um tùm, con chim rừng nhí nhảnh thả tiếng hót véo von nghe thanh bình quá đỗi. Tiếng chim làm tôi quay quắt nhớ đến lũy tre làng, nhớ dáng mẹ gầy tất tưởi chạy tắt triền đê dúi vào tay tôi bọc bồ kết phơi khô trong buổi chiều lao xao gió ấy. Nỗi nhớ cứ chen chúc cựa quậy trong lồng ngực. Tôi không dám nghĩ nữa, cứ sợ không nén được, nước mắt sẽ trào ra…

Minh họa: MẠNH TIẾN

Trong thời gian nghỉ giải lao, mọi người chụm vào nhau thành những nhóm nhỏ, nhóm bông đùa chuyện phiếm, nhóm thư thả ngâm thơ, nhóm rộn rã tốp ca, nhóm tranh thủ dạy nhau học chữ. Cái không khí vui tươi, sôi nổi ấy nhanh chóng xua tan những mệt mỏi. Tôi cùng anh Thược và một vài người mang bi đông đến con suối gần đó múc đầy nước và hái thêm những cành cây tươi tốt thay thế đám lá đã héo rũ, ngụy trang lại cho chiếc xe đạp thồ. Thấy tôi gầy gò, ốm yếu, da dẻ xanh lướt, anh Thược ngỏ ý muốn chở giúp tôi một bao gạo. Nhưng tôi gắng nở một nụ cười thật tươi, dõng dạc nói:

- Em còn khỏe lắm.

- Vậy thì cố lên em nhé!

Anh Thược là một trong những người nhiều kinh nghiệm nhất trong đoàn. Tính ra, anh đã có hơn chục chuyến thồ lương thực từ hậu phương lên chiến trường Điện Biên Phủ. Còn tôi, đây là lần đầu tiên được giao nhiệm vụ quan trọng này. Ai cũng bảo, đèo Pha Đin chính là chướng ngại vật cam go nhất suốt chặng hành trình. Nghĩ về bộ đội đang cầm chắc tay súng ngày đêm không ngủ, tôi tự nhủ, dù cam go thế nào, mình cũng không được bỏ cuộc. 

Càng lên cao, những bao tải gạo nặng trĩu trên chiếc xe thồ càng muốn kéo ghì bánh xe lại. Không được chùn bước! Không được chùn bước! Tôi vẫn lẩm nhẩm trong miệng mình để lấy động lực chiến đấu với con đèo. Tôi bấm những ngón chân vào đất đến bật máu, dồn sức đẩy chiếc xe nhích lên từng chút, từng chút một. Rồi chỉ cần tôi chới với hụt đà, bánh xe liền chuồi ngược về sau rất nhanh khiến mấy lần tôi loạng choạng suýt ngã xuống miệng vực. Tôi phải quỵ đầu gối phanh lại thì chiếc xe thồ mới tạm dừng một chỗ. Phía trước, sương trên những sườn núi theo gió sà xuống, giăng giăng mờ mịt. Nhìn trước, ngoảnh sau đều không thấy ai. Tôi như bị lạc trong một mê cung chỉ toàn màu trắng. Khi tôi đang đuối sức thì anh Thược xuất hiện. Anh dùng sợi dây dù thường mắc võng cột vào ghi-đông xe tôi nối với gác-ba-ga xe anh, rồi bảo:

- Anh em mình cùng hợp sức. Sắp tới đỉnh đèo rồi.

***

Dốc gối lên dốc, đèo nối thêm đèo. Bánh xe chạm đến đèo Tằng Quái thì mặt trời bị những sóng núi mờ xa dần dần nuốt gọn. Bóng tối đổ ập xuống, nhanh như hũ mật mía vỡ toang. Gió luồn lách trong những tàng cây vi vu, hoang lạnh. Trên bầu trời, máy bay địch đang ù ù réo rắt. Tình thế vô cùng cấp bách. Chúng tôi nhận được lệnh phải đi xuyên đêm. Anh Thược bẻ đôi miếng lương khô, đưa cho tôi một nửa. Rồi chẳng cần hỏi ý kiến tôi như lần trước, anh tự mở lấy một bao tải gạo trên xe tôi, chất lên xe anh.

Trời tối đen và quánh đặc như bồ hóng vón cục. Mồ hôi tôi giàn giụa túa ra như tắm mưa. Trong người nóng bừng mà ngoài da lạnh sởn gai ốc. Chúng tôi chỉ còn nhận biết được nhau bằng tiếng thở, tiếng bước chân và thậm chí cả tiếng bánh xe đang quay chậm chạp. Anh Thược vẫn bên cạnh tôi. Tôi không biết con đèo này dài thế nào, cao bao nhiêu. Chỉ biết tiếp tục dặn lòng mình, chừng ấy gian nan đã vượt qua được rồi, chẳng nhẽ mấy chục cây số còn lại có thể làm nản ý chí quyết tâm của mình? Những thắng lợi hào hùng của quân và dân ta trong đợt 1 và đợt 2 Chiến dịch Điện Biên Phủ mà anh Thược kể lúc giải lao vẫn còn vang vang trong từng nhịp đập trái tim tôi. Điện Biên Phủ-mảnh đất thân thương ấy đang ở rất gần!

Xe leo được một chặng đèo khá dài thì đột nhiên, tôi hụt chân vào một cái ổ gà, ngã dúi dụi xuống triền vực bên cạnh. Tôi cứ lăn tròn cho đến lúc đầu đập vào một tảng đá…

*

Khi tôi tỉnh dậy thì thấy mình nằm trên một ổ rơm vàng thơm nồng hương nếp. Ngoài cửa, nắng đã lên vàng tươi. Núi sừng sững chắn ngang tầm mắt. Mấy con gà đang tranh nhau mổ một con giun đất. Cả đầu và chân tôi đều được băng lại bằng vải áo, còn đau nhưng nhức. Một người mế già tóc bạc trắng như gạo, bê vào bát nước sóng sánh màu cánh gián bảo tôi uống. Đỡ lấy bát nước trên đôi tay mế, tôi thều thào hỏi:

- Con đang ở đâu đây ạ?

Người mế già nói bằng thứ tiếng Kinh lơ lớ:

- Nhà mế. Uống thuốc vào cái bụng cho cái đầu, cái chân nhanh khỏi.

Rồi người mế già chỉ lên một cánh cửa gỗ đang khép hờ. Lúc này, tôi mới để ý, ở đó, có mấy dòng chữ nghiêng nghiêng viết vội bằng than củi: “Em cứ yên tâm nghỉ ngơi. Anh và mọi người sẽ trở về đón em. Anh Thược”.

Những ngày tôi nằm ổ rơm dưỡng thương, mế già xem tôi như con ruột. Bữa cơm nào, mế cũng gạt phần khoai sắn về mình, nhường phần cơm trắng xới vào bát tôi. Chiều chiều, mế lại lúi húi hái hoa rừng nấu nồi nước thơm lừng cho tôi tắm. Mế kể, hai người con trai mế cũng đi bộ đội ở chiến trường Điện Biên Phủ. Và hầu như đêm nào cũng vậy, trước khi đi ngủ, mế lại ra đứng trên bậc cầu thang một hồi lâu, ngóng trông về phía xa xăm. Mấy đêm rồi, tôi không tài nào chợp mắt nổi. Nằm ở đây vẫn nghe rõ tiếng bom rơi, đạn nổ đùng đoàng, tiếng trực thăng ầm ào gào rú. Khoảng trời phía tây chập chờn lóe sáng như những tia chớp. Tôi ước cái chân đau của mình liền sẹo thật nhanh. Mế quàng tay ôm tôi vào lòng thật chặt, ủi an. Trong lòng mế, ruột gan tôi nóng bừng như ủ lửa. Tôi lo lắng cho anh Thược, cho những đồng đội của tôi ở chiến trường và cho cả hai người con trai của mế nữa.

***

Một buổi sáng, tôi tỉnh dậy thì nghe thấy tiếng chim rừng thánh thót rộn vui. Con đường dưới chân núi đã hóa thành một dòng sông rực rỡ sao vàng, cờ đỏ của những đoàn quân nối tiếp nhau như kéo dài bất tận. Người mế già khấp khởi đi giữa hai người lính đang mặc quân phục bạc màu. Từ ngoài cổng, trông thấy tôi, mế sung sướng huơ huơ chùm hoa mua tím biếc:

- Thắng rồi! Con ơi! Chúng ta thắng rồi!

Hai người con của mế từ chiến trường đã trở về. Không kìm nổi sự xúc động đang trào lên, tôi bật khóc.

***

Tôi vẫn chờ đợi. Tôi vẫn ngóng trông. Cho đến buổi sáng hôm sau, tôi nhìn thấy bên rào cây dã quỳ, thấp thoáng xuất hiện một màu áo xanh. Mặc cái chân đau đang sưng húp, tôi tập tễnh chạy ào ra. Đang chụm bếp lửa hồng nấu lá thuốc, sợ tôi ngã, mế già chạy theo, đỡ tôi xuống những bậc thang xập xình, ọp ẹp. Không phải anh Thược.

- Cho hỏi chị có phải là Phương?

- Dạ vâng ạ!

- Anh Thược gửi lại cho chị cái này.

Đó là cây ban nhỏ xinh được trồng trong một chiếc cặp lồng đã bị thủng lỗ chỗ.

- Anh Thược đang về sau có phải không, anh?

Người lính trầm ngâm một lát rồi nghẹn ngào:

- Anh ấy… anh ấy đã… hy sinh…

Ôm cây ban nhỏ ấp vào lòng, hai đầu gối tôi quỵ xuống. Mế già vuốt những sợi tóc mai lòa xòa trên trán tôi, khóc tức tưởi:

- Phà (Trời) ơi, phà không thương con gái tôi à?

Nước mắt tôi như hóa thạch trong hốc mắt. Tôi nhìn về phía cánh cửa gỗ đang mở toang. “Em cứ yên tâm nghỉ ngơi. Anh và mọi người sẽ trở về đón em. Anh Thược”. Dòng chữ ấy vẫn chưa phai màu. Nhưng anh Thược đã thất hứa với tôi. Khoảnh khắc ấy, hình ảnh đoàn xe thồ chở nặng lương thực trên những cung đường quanh co uốn khúc ùa về trong ký ức của tôi, cồn cào, thổn thức. Tôi thấy đâu đó trong đoàn quân trùng điệp, anh Thược hiện ra với nụ cười hiền hậu: “Để anh chở giúp Phương một bao tải gạo”.

***

Tôi mang cây ban nhỏ trồng ở góc sân trước hiên nhà mình. Cây ban lớn nhanh như thổi. Sáu mươi lăm năm trôi qua, tóc tôi đã rụng rơi gần hết mà cây ban sau mùa thay lá mãi ngan ngát sắc xanh. Mỗi lần mở cửa ngắm cây ban, tôi lại nhớ anh Thược, nhớ người mế già, nhớ đoàn dân công hỏa tuyến kiên cường, nhớ Điện Biên Phủ anh hùng một thời khói lửa. Tôi luôn tin rằng, trên đời này, chẳng khoảng cách nào có thể chia rẽ chúng tôi. Họ vẫn luôn ở bên tôi, trong nỗi nhớ đau đáu khôn nguôi, trong tiếng gọi từ một miền ký ức. Phải chăng vì thế mà tháng ba đã qua, hoa ban còn thức? Như thấu hiểu lòng tôi, chùm ban lỗi mùa vừa nở sáng nay lay lay đồng cảm…

Truyện ngắn của PHAN ĐỨC LỘC