QĐND - Như một cây lớn-có gốc rễ, cành lá, hoa quả và bóng mát, thơ ở Việt Nam, như ở những nước văn hóa-văn hiến khác, cũng có cội nguồn và để hiểu rõ hơn nguồn gốc thơ Việt Nam viết bằng chữ Hán, chúng tôi ngược dòng lịch sử.

Từ năm 179 trước CN, nước Âu Lạc (Việt Nam cổ) đã bị nhà Nam Việt ở phương bắc thôn tính và rồi bị chia thành hai quận: Quận Giao Chỉ (Bắc Bộ nước ta bây giờ) và quận Cửu Chân (Bắc Trung Bộ). Tiếp đó, lại bị lệ thuộc vào các vương triều phương bắc khác: Tây Hán, Đông Hán, Đông Ngô (Tam Quốc); Tây Tấn, Đông Tấn, Lương (Nam Bắc triều), Tùy, Đường. Sử Việt Nam gọi đó là “Thời Bắc thuộc”.

Tới khi nước ta chính thức giành lại độc lập và xây dựng nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên với việc Ngô Quyền xưng vương (939), thì “Thời Bắc thuộc” của Việt Nam, thực chất đã kéo dài suốt 1.118 năm!

Hơn một nghìn năm ấy, với chủ trương “Dùng một thứ chữ viết, một lịch pháp, một độ dài trục xe (ngựa), một đơn vị đo lường” có từ thời Tần Thủy Hoàng, tổ tiên của người Việt buộc phải coi Hán tự là quốc tự, phải học chữ Hán và trước tác bằng chữ Hán, trong đó có việc làm thơ và do đó, không kịp có (hoặc đã bị mất?) chữ viết riêng (có những nhà nghiên cứu vẫn đang đi tìm chữ viết của người Việt cổ mà theo họ, còn có ở Việt Nam trước cả chữ Hán).

Nhưng trong cái hại ấy lại có những cái lợi:

Thơ viết bằng chữ Hán của người phương Bắc khá hay, đặc biệt là thơ đời Đường (618-907). Nền thơ này đã thuyết phục được tổ tiên của người Việt bởi những lẽ căn bản:

- Giàu khả năng "Tải đạo" (Chở đạo), tức là “chở” cái lý của vũ trụ, trời đất và vẻ đẹp của bốn mùa thiên nhiên, “chở” cái số của con người (thế nên lý số đã trở thành một “Khoa học cổ đại” phương Đông), “chở” tư tưởng và tôn giáo-đạo giáo phương Đông (Nho-Phật-Lão), “chở” cái nhân tình thế thái trong cõi đời, “chở” cái triết lý nhân sinh phương Đông... tức là “chở” được... tất cả! Tóm lại, chính vì thế mà vai trò -sứ mệnh của thơ ở phương Đông là rất quan trọng, như Trần Tử Ngang (661-701), một cây đại bút đời Đường, đã nói: “Thơ là tấc lòng gửi vào thiên cổ, đâu phải chuyện tài hoa phấn xức một lúc một thời”. Cho nên, thơ phương Đông có thể để: Nói chí, nói tình; tâm sự và đánh giặc; ngâm vịnh và thuyết giảng; ru con và hát xướng;  đối nội/đối ngoại; có thể để sống và cũng có thể để ... chết!

Sinh ra và hoàn thiện cả một phương châm-nguyên tắc-nguyên lý sáng tác lớn, là "ý tại ngôn ngoại" (ý ở ngoài lời). Nguyên lý sáng tác này giúp cho các nhà thơ phương Đông dễ dàng múa bút trong mọi thủ pháp sáng tác của mọi trường phái thơ, từ xưa đến nay.

Hoàn thiện nhiều hình thức (thể loại) thơ có cấu trúc ngữ văn-ngữ âm khoa học, chặt chẽ, cân đối, mỹ lệ, kiệm lời (để càng "ý tại ngôn ngoại"); với đủ các phép đối, phép tỷ; với luật bằng/trắc, bổng/trầm thuận theo quy luật tuần hoàn của thời gian và sự rộng/hẹp, tĩnh/động, nóng/lạnh của không gian; với sự yêu ghét, giận hờn, buồn vui của lòng người... rất hợp với người phương Đông; rất hợp với yêu cầu thâm thúy, đa nghĩa, đa thanh, đa diện, đa sắc, đa hương, đa tình phương Đông. Những điều ấy càng rõ trong Đường thi.

Luật bằng trắc trong Đường thi, may quá, vốn đã, hoặc do tổ tiên người Việt tiếp biến, lại rất phù hợp với thanh âm tiếng Việt, đến mức mà ngay trong thơ viết bằng chữ Nôm sau này, cũng hầu như không cần điều chỉnh. Cái Tính dân tộc-Tính Việt của ngôn ngữ Việt-trở nên đặc sắc từ hoàn cảnh vừa nói, đó là, dù chữ viết là chữ Hán, nhưng tiếng nói thì luôn là của người Việt. Âm Hán-Việt ra đời từ đây, riêng, hợp và lộng lẫy cho mãi đến tận bây giờ, dẫu chữ viết Việt đã là Quốc ngữ từ lâu.

Từ “Bắc thuộc” cho tới cuối thời phong kiến ở Việt Nam (đầu thế kỷ XX), người Việt đã thạo chữ Hán không thua gì người Hán (có những người là Trạng nguyên cả ở Việt Nam lẫn Trung Hoa-“Lưỡng quốc Trạng nguyên”). Do đó, thơ viết bằng chữ Hán của người Việt có nhiều thành tựu, chính thức được ghi chép lại từ thời nhà Lý (1010-1225), do nhiều thế hệ tác giả là nho sĩ-nghệ sĩ-thiền sư-vua chúa-quan lại phong kiến sáng tác suốt hàng nghìn năm với đầy đủ những ưu điểm nói trên của thơ phương Đông.

Cũng phải nói thêm rằng, thơ viết bằng chữ Hán của Việt Nam, chắc chắn là rất nhiều, nhưng lưu lại không được bao nhiêu, vì các lý do sau: “... do binh lửa nên mất cả, tiếc thay!” (lời tựa "Việt âm thi tập"-Phan Phu Tiên-1433), “... vì binh lửa, số còn lại chỉ được một vài trong hàng trăm hàng ngàn bài” (lời tựa "Tân Việt âm thi tập" - Lý Tử Tấn-1495). “Tiếc rằng trải qua nhiều phen binh lửa, hầu hết (thơ văn Lý-Trần) đều thất lạc không còn. Thảng hoặc có ai thu nhặt, cất giữ được ít nhiều, thì đều sai lẫn khó tin” (lời trong "Biểu dâng Việt âm thi tập"-Chu Xa-1459). “Nếu chẳng phải trải qua cướp bóc, đốt phá mà hóa tro tàn, thì hẳn là trâu kéo đến toát mồ hôi, chứa đầy đến tận xà nhà” (lời tựa thiên Văn tịch chí trong "Lịch triều hiến chương loại chí"- Phan Huy Chú, 1782-1840). Chỉ một ví dụ sau đây cũng đủ để thấy, “binh lửa” đã biến thơ chữ Hán thành tro tàn như thế nào: Trong sắc chỉ 10 điều gửi ngày 21 tháng tám năm 1406 cho tướng nam chinh Chu Năng, Minh Thành Tổ (1403-1425), vua Trung Hoa bấy giờ, đã chỉ thị rằng, “... Một khi binh lính (Trung Hoa) đã vào nước Nam, trừ các sách kinh và các bản khắc in của đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy; ngoài ra, hết thảy mọi sách vở, văn tự, cho đến cả những loại sách ghi chép ca lý dân gian hay sách dạy trẻ..., một mảnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp nước Nam, phàm những bia do Trung Hoa dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ cũng chớ để còn”!

Ý thức lưu trữ và khoa học lưu trữ thời ấy còn thô sơ, nên văn thơ còn dễ mất mát.

Thời Lý-Trần, trong khi kinh Phật được tự do khắc in, thì riêng văn chương, phải có “Thánh chỉ” mới được in và lưu hành, do đó, lượng xuất bản không phải là vô độ và do đó, sự mất mát lại càng dễ trầm trọng.

Thơ viết bằng chữ Hán của Việt Nam, nổi bật có: "Việt âm thi tập". Đây là tuyển tập thơ đầu tiên ở Việt Nam, do ông Phan Phu Tiên (biên soạn). "Tân Việt âm thi tập"-Chu Sa biên soạn. Sách in năm 1459, gồm 6 tập.Tinh tuyển chư gia luật thi (còn gọi là "Tinh tuyển chư gia thi tập" hoặc "Cổ kim thi gia tinh tuyển tập"). Soạn giả là Dương Đức Nhan.

Tinh tuyển chư gia luật thi, hiện ở Thư viện Khoa học Trung ương còn hai bản. Bản chép tay (A.574), gồm quyển I và quyển II. Trừ tập Phụ lục là một tập thơ đời nhà Nguyễn lẫn vào, thì vẫn còn 362 bài thơ của 11 tác giả hai đời Trần và Lê.

Toàn Việt thi lục. Soạn giả là Lê Quý Đôn (1726-1784). Toàn Việt thi lục, theo Mục lục của bản cổ nhất hiện có, gồm 15 quyển, chép 2.391 bài thơ của 175 tác giả, từ thời nhà Lý đến đời vua Lê Tương Dực (1510 - 1516) thuộc thời Lê Sơ.

Hoàng Việt thi tuyển. Soạn giả là Bùi Huy Bích (1744-1802).

Hoàng Việt thi tuyển được viết xong từ năm 1788, in năm 1825, ở đời vua Minh Mạng thuộc triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam.

Thơ Thiền và Kệ của các Thiền sư-cao tăng thời Lý như Ngô Chân Lưu (Khuông Việt đại sư), Lý Vạn Hạnh (Vạn Hạnh Thiền sư), Đàm Cứu Chỉ, Lâm Khu (Huệ Sinh Thiền sư), Đàm Khí (Ngô ấn Thiền sư), Mai Trực (Viên Chiếu Thiền sư), Lý Trường (Mãn Giác Thiền sư), Nguyễn Giác Hải (Giác Hải Thiền sư)...

Thơ của vua quan nhà Lý như: Lý Thái Tông, Lý Thường Kiệt...

Thơ và Kệ thời Trần của: Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Tung, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Phạm Sư Mạnh, Trần Nguyên Đán...

Thơ thời Hồ-Lê của: Đặng Dung, Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Lê Thánh Tông và Hội Tao đàn...

Thơ thời Lê-Trịnh - đầu Nguyễn của: Đặng Trần Côn, Phạm Công Trứ, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Nguyễn Du...

Thơ thời Tây Sơn và  thời Nguyễn của: Nguyễn Thiếp, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Du, Trịnh Hoài Đức, Lý Văn Phức, Cao Bá Quát, vua Tự Đức, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh...

Những bài thơ viết bằng chữ Hán tiêu biểu

LÝ THƯỜNG KIỆT

(Phiên âm Hán - Việt)

Nam quốc sơn hà

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Dịch nghĩa:

Sông núi nước Nam

Sông núi nước Nam, vua Nam ở

Rành rành phân định tại sách trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Dịch thơ:

     Sông núi nước Nam

      Nước Nam là của vua Nam

Sách trời đã định, biết làm sao đây

      Giặc sang xâm phạm đất này

Chóng chầy thì cũng đến ngày bại vong.

(Đỗ Trung Lai chuyển lục bát)

    *  *  *

MÃN GIÁC THIỀN SƯ

Phiên âm Hán - Việt:

Cáo tật thị chúng

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Dịch nghĩa:

Có bệnh bảo mọi người

Xuân đi, trăm hoa rụng,

Xuân đến, trăm hoa nở.

Việc đời theo nhau ruổi qua trước mắt,

Tuổi già về trên đầu rồi

Đừng nghĩ rằng xuân tàn thì hoa rụng hết,

Sân trước, đêm qua, vừa nở một nhành mai.

 

Dịch thơ:

Có bệnh bảo mọi người

      Xuân tàn, tàn cả trăm hoa

Xuân về, lại thấy trăm hoa khoe màu

      Việc đời trước mặt chen nhau

Già về cho tóc trên đầu vội phai

      Xuân tàn hoa cạn, mặc ai

Một nhành mai nở sân ngoài, đêm qua.

(Đỗ Trung Lai chuyển lục bát)

        *  *  *

 

TRẦN NHÂN TÔNG

Phiên âm Hán - Việt:

Xuân hiểu

Thụy khởi khải song phi

Bất tri xuân dĩ quy

Nhất song bạch hồ điệp

Phách phách sấn hoa phi.

Dịch nghĩa:

Buổi sớm mùa xuân

Ngủ dậy, mở cửa sổ

Còn chưa biết là xuân đã về

Có một đôi bướm trắng

Phấp phới bay về phía hoa xuân.

Dịch thơ:

Buổi sớm mùa xuân

Tan giấc, mở cửa sổ

Nào hay xuân đã về

Kìa, đôi con bướm trắng

Bay vào hoa ngoài kia.

(Đỗ Trung Lai dịch)

 

  *  *  *

TRẦN QUANG KHẢI

(Phiên âm Hán - Việt)

Tòng giá hoàn kinh

Đoạt sáo Chương Dương độ

Cầm Hồ Hàm Tử quan

Thái bình tu trí lực

Vạn cổ thử giang san

Dịch nghĩa:

Theo xe vua về kinh

(Đã) cướp giáo (giặc) ở bến (trận) Chương Dương

(Lại) bắt sống giặc ở cửa (trận) Hàm Tử

Từ nay, thái bình (rồi), phải cùng gắng sức

(Để) nước non này bền vững vạn đời.

Dịch thơ:

Theo xe vua về kinh

Chương Dương cướp giáo giặc

Hàm Tử bắt quân thù

Thái bình nên gắng sức

Non nước ấy nghìn thu.

(Trần Trọng Kim dịch)

 

    *   *    *

 

NGUYỄN TRÃI

(Phiên âm Hán - Việt)

Thính vũ

Tịch mịch u trái lý

Chung tiêu thính vũ thanh

Tiêu hao kinh khách chẩm

Điểm trích sổ tàn canh

Cách trúc khao song mật

Hòa chung nhập mộng thanh

Ngâm dư hồn bất mị

Đoạn tục đáo thiên minh.

Dịch nghĩa:

Nghe mưa

Trong phòng tối tăm tịch mịch

Suốt đêm nghe tiếng mưa rơi

Khiến động cả gối khách

Giọt nước điểm mấy canh tàn

Cành trúc bên ngoài khua vào cửa sổ đóng kín

Tiếng chuông đi vào giấc mơ tạm

Ngâm thơ rồi nhưng vẫn không ngủ được

Chập chờn mãi đến lúc trời sáng.

 

Dịch thơ:

Nghe mưa

Mình ta trong phòng tối

Nghe mưa rơi đêm dài

Lời mưa về vỗ gối

Giọt giọt buông canh chầy

Ngoài song, nghe động trúc

Chuông vào lay giấc ai

Ngâm thơ, không ngủ được

Nhìn lên, trời sáng rồi!

(Đỗ Trung Lai dịch)

      ****

ĐẶNG DUNG

(Phiên âm Hán - Việt)

Cảm hoài

Thế sự du du nại lạo hà

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Thời lai đồ điếu thành công dị

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa

Trí chủ hữu hoài phù địa trục

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch

Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma

Dịch nghĩa:

Cảm hoài

Việc đời cuồn cuộn như sông mùa lũ

Trời đất mênh mang trong mỗi câu ta hát

Gặp thời, người câu cá kia cũng dễ thành công(*)

Lúc lỡ vận, anh hùng đành nuốt bao nỗi hận

Ý chúa những muốn xoay đất chuyển trời

Nhưng không có đường kéo sông Ngân xuống để rửa giáp

Thù nước chưa trả được mà đầu đã sớm bạc

Bao lần ta mang thanh Long Tuyền ra mài dưới trăng!

(*). Lã Vọng xưa ngồi câu cá bên sông Vị Thủy, gặp được Văn Vương mà thành công.

 

Dịch thơ:

Cảm hoài

      Thế thời như lũ trên sông

Một câu ca cũng mênh mông đất trời

      Dễ sao câu cá gặp thời

Anh hùng lỡ vận đầy vơi ly sầu

Chúa mong xoay đất chuyển lầu

Ngân Hà rửa giáo, giờ đâu thấy đường!

      Giặc còn, tóc đã pha sương

Bao phen dưới nguyệt mài gươm Long Tuyền!

(Đỗ Trung Lai chuyển lục bát)

    *  *   *

NGUYỄN DU

(Phiên âm Hán - Việt)

Độc Tiểu Thanh ký

Tây hồ hoa uyển tẫn thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

Chi phấn hữu thần liên tử hậu

Văn chương vô mệnh lụy phần dư

Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vận kỳ oan ngã tự cư

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

Dịch nghĩa:

Đọc truyện nàng Tiểu Thanh

Tây hồ, nơi đẹp đẽ ấy nay đã hóa ra gò hoang

Thổn thức bên song, chỉ còn mảnh sách tàn

Người con gái đẹp có thần, chôn đi rồi, còn biết hận

Văn chương dù không có số mệnh, vẫn vương lại hồn cốt

Nỗi hờn (của người ta) xưa nay, đến trời còn khó hỏi

Cái kỳ án của kẻ phong lưu, tự mình phải mang lấy

Không biết 300 năm sau

Có ai dưới trời này còn biết mà nhỏ nước mắt vì Tố Như chăng?

 

Dịch thơ:

Đọc truyện nàng Tiểu Thanh

 

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn

Son phấn có thần, chôn vẫn hận

Văn chương không mệnh, đốt còn vương

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi

Cái án phong lưu khách tự mang

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa

Ai người còn khóc Tố Như chăng?

(Cao Xuyên dịch)

  *   *   *

CAO BÁ QUÁT

(Phiên âm Hán - Việt)

Bạc vãn túy quy

Mính đính quy lai bất dụng phù

Nhất giang yên trúc chính mô hồ

Nam nam tự dữ liên hoa thuyết

Khả đắc hồng như tửu diện vô

Dịch nghĩa:

Buổi chiều bên sông, say rượu trở về

Chếnh choáng say, trở về chưa cần người đỡ

Cả một dải sông, mịt mờ những khói cùng tre trúc

Khe khẽ ghé hỏi hoa sen:

Hoa có hồng bằng mặt rượu của ta không?

 

Dịch thơ:

Buổi chiều bên sông, say rượu trở về

Chếnh choáng say về, không đợi dắt

Mịt mùng khói trúc một dòng sông

Thì thầm cúi xuống hoa sen hỏi:

Hoa có hồng như mặt rượu không?

(Nguyễn Văn Bách dịch)

Nhà thơ ĐỖ TRUNG LAI