(Tiếp theo và hết)

QĐND - Quan hệ giữa cặp hình tượng người yêu - quê hương , đất nước trong thơ thời chống Mỹ là quan hệ hóa thân, hòa vào nhau, ở trong nhau. Đất nước hóa thân vào tình yêu hay tình yêu hóa thân vào đất nước thật khó phân biệt:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm (Mặt đường khát vọng- Nguyễn Khoa Điềm)

Họ nhắn nhủ nhau cùng nguyện thề gắn bó với đất nước :

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời (Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)

Đây là những câu thơ của một thời, mang tinh thần của một thời nhưng sẽ sống ở nhiều thời, bởi một lẽ giản đơn con người và tình yêu bao giờ cũng tồn tại trong một không gian đất nước cụ thể. Chẳng một ai không có quê hương. Chẳng một tình yêu nào nở hoa ngoài mặt đất, dù sau này con người có thể lên sao Kim, sao Hỏa để tỏ tình thì tình yêu cũng đã có từ mặt đất!

Tình yêu muôn vàn sắc thái, dĩ nhiên cặp hình tượng trên cũng có nhiều biến thể khác nhau, có thể chưa tinh tế nhưng phong phú, như người yêu - cuộc đời trong thơ Bằng Việt: Cuộc đời lớn cùng em chung nhịp thở/ Vừa bận rộn như em, vừa an ủi như em. Nhất là trong thơ Xuân Quỳnh với người yêu - mái phố: Tôi về trong mái nhỏ/ Sau mỗi lần gian nan/ Như tìm đến bên anh/ Sau nỗi niềm cay đắng (Mái phố); người yêu - tên sông núi: Tên sông núi trở thành tiếng gọi/ Như tên anh với em thành nỗi đợi (Viết trên đường 20); tình yêu - miền đất: Miền đất ấy vẹn nguyên trong trí nhớ/ Như tình yêu- vĩnh viễn có qua đâu (Miền đất ấy)...

Nằm trong đặc điểm chung của thể loại nhưng thơ tình yêu thời chống Mỹ chịu sự quy định của tư duy sử thi nên tư duy về hình tượng thiên nhiên có khác. Nó không tả mà chỉ mượn thiên nhiên làm phương tiện biểu đạt để chở nghĩa của biểu tượng. Bằng chứng là thiên nhiên xuất hiện không nhiều. Cũng dễ lý giải: Chiến tranh! Chiến tranh tàn phá thiên nhiên, hủy diệt thiên nhiên. Chiến tranh rút ngắn thời gian vật lý hạn chế tầm nhìn của nhà thơ hướng ra ngoài không gian ngoại cảnh... Trường hợp thiên nhiên là thiên nhiên thật hiếm hoi:Trời lên màu trời/ Cây khác màu cây/ Nhưng đây phút giây/ Nắng lên đầy chiều/ Một điều không khác là lòng anh yêu (Vẽ - Vũ Quần Phương). Phần lớn hình tượng thiên nhiên được dùng như một ẩn dụ của, hoặc so sánh với tình yêu, người yêu. Đó là bầu trời: Anh trở về, trời xanh của riêng em (Xuân Quỳnh); Một màu trời kỳ lạ/ Sáng lên từ hai ta hay: Em như đường chân trời mỗi buổi nắng lên (Bằng Việt)... Đó là mùa xuân: Đất như cô gái yêu/ Giấu bao điều chưa nói/ Bỗng nhú những mầm non/ Khi nghe mùa xuân gọi (Lâm Thị Mỹ Dạ)... Đó là sóng, biển, gió, mưa: Biển hay tình em đó/ Gọi lòng anh bay xa (Xuân Quỳnh); Em cũng giống như cơn mưa, như trận gió lúc sang hè/ Làm thức tỉnh hồn tôi nhiều biến động; Tình yêu như cánh gió không bờ; Em đã đến như một mùa gió lộng (Bằng Việt); Chúng mình như sông vì bãi bờ mà bồi đắp.../ Phóng khoáng như gió trời (Phan Thị Thanh Nhàn)...

Xét vào bên trong của cấu trúc hình tượng, ta cũng dễ thấy có một đặc điểm bất biến, vĩnh hằng, không thay đổi. Thời đó là thời của lý tưởng, của niềm tin, "người với người sống để yêu nhau”, trong tình yêu lại càng thế: Nốt ruồi nhỏ bên môi em vẫn thế/ Mà một thời giông bão đi qua (Rung động buổi chiều - Bằng Việt). Niềm tin là cơ sở của tình yêu, tiếp thêm sức mạnh cho tình yêu vượt qua mọi thách thức, mà chiến tranh là thách thức lớn nhất: Bao năm rồi đánh Mỹ/ Lòng tin vẫn y nguyên/ Đạn bom không xóa được/ Nét mùa xuân hồn nhiên (Tiếng mùa xuân - Lâm Thị Mỹ Dạ). Một trong những lý giải có sức thuyết phục về nguyên nhân thắng Mỹ là con người Việt Nam rất giàu niềm tin. Có niềm tin là có tất cả. Điều ấy thể hiện rõ trong thơ: Em tươi tắn như mùa xuân thứ nhất/ Nhưng thủy chung như một sắc mai già/ Đôi mắt mở to, dịu dàng thấm mát/ Sau rất nhiều gian khổ đi qua (Tình yêu và báo động - Bằng Việt).

Thời nào cũng thế, đời nào cũng thế, tình yêu luôn đi liền với sự băn khoăn. Vì tình yêu là quý nhất, giá trị nhất, thiêng liêng nhất. Mà tình yêu là để gửi trao, để cho, để nhận. Không băn khoăn sao được, chẳng may trao nhầm, nhận nhầm... Một đặc điểm của riêng thơ tình yêu thời chống Mỹ là sự băn khoăn ấy luôn nằm trong phạm trù đạo lý. Chuyện đạo lý là chuyện tốt xấu, hay dở. Tiêu chuẩn chọn người yêu của nam nữ thời ấy là bộ đội, dân quân, du kích, thanh niên xung phong... bởi dư luận xã hội đã mặc nhiên coi đó là những người tốt. Điều băn khoăn của cô gái trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ cũng là mối băn khoăn của trăm ngàn cô gái ngoài đời: Trời anh mênh mông/ Mây em bay lượn/ Gió anh bao la/ Cây em ve vuốt/ Đất anh thẳm sâu/ Lúa em cúi đầu/ Nhưng sao vẫn hỏi/ Day dứt trong lòng/ Anh có tốt không (Anh có tốt không). Và khi đã yêu nhau rồi thì mong muốn về nhau cũng là làm ”người tốt lành” (không như bây giờ phải là người giỏi, người giàu ...): Hãy chỉ cho em cái kém/ Để em nên người tốt lành/ Hãy chỉ cho em cái xấu/ Để em chăm chút đời anh/ Anh ơi anh có biết không/ Vì anh em buồn biết mấy/ Tình yêu khắt khe thế đấy/ Anh ơi anh đừng khen em (Anh đừng khen em - Lâm Thị Mỹ Dạ).

Có một đặc điểm thú vị nữa là nhân vật trữ tình trong thơ tình yêu thời chống Mỹ thường rất ít lời, khác với tình yêu trong thơ lãng mạn 1930-1945 là rất nhiều lời "phải nói, phải nói và phải nói” (Xuân Diệu). Có thể lý giải thế này chăng: tình yêu thời đó là tình yêu lý tưởng, trong sáng tuyệt đối, hoà hợp tuyệt đối... nên không cần nhiều lời, và có nói cũng không diễn tả hết cái tuyệt đối ấy, chỉ cần nhìn nhau và... im lặng: Họ ngồi im không biết nói năng chi/ Mắt chợt nhìn nhau rồi lại quay đi/ Nào ai đã một lần dám nói/ Hương bưởi thơm cho lòng bối rối (Hương thầm – Phan Thị Thanh Nhàn). Không chỉ hôm nay im lặng mà ngày mai gặp gỡ cũng vẫn muốn như thế: Khi trở về anh hãy nắm tay em/ Ta im lặng đi dọc hè nắng trải (Từ Khâm Thiên - Phan Thị Thanh Nhàn). Chúng tôi cho rằng thơ tình yêu thời chống Mỹ sẽ sống mãi cùng lịch sử vì giá trị tự thân của nó và cả với tư cách chứng nhân lịch sử .

NGUYÊN THANH

 

Thơ và tình yêu người lính