QĐND - Nhà anh ở gần sông Đuống. Tôi đến thăm anh khi anh đang lững thững đi dạo dưới một giàn gấc quả rất sai và đang độ chín. Chúng tôi ngồi trò chuyện với nhau bên cái cửa sổ con nhìn ra những chân mạ đang kỳ “bánh tẻ” xanh đến lạ lùng. Cảnh sắc ấy làm tôi liên tưởng tới những vần thơ sắt lửa của anh in trong hai tập Gió vào trận bão và Đêm Quảng Trị anh viết trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.

Phạm Ngọc Cảnh thuộc lớp nhà thơ xuất hiện ở những năm sắp vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhưng cuộc đời cầm súng của anh thì sớm hơn. Anh tạm biệt cái thị xã Hà Tĩnh nhỏ và nghèo quê anh vào bộ đội lúc mới 13 tuổi và khoác áo lính hơn ba mươi năm ròng, đi gần trọn hai cuộc chiến tranh. Bây giờ bạn đọc biết anh là người làm thơ, nhưng đã có một thời người ta biết anh là một diễn viên kịch nói, một diễn viên khá quen thuộc với khán giả của Đoàn kịch Quân đội những năm sáu mươi của thế kỷ trước.

Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh (1934-2014). Ảnh tư liệu

Phạm Ngọc Cảnh yêu thơ và làm thơ từ khi nào? Điều đó chính anh cũng không còn nhớ nữa. Chỉ biết rằng những năm 1957-1958 ở khu văn công quân đội có một diễn viên trẻ ham đọc các sách, báo văn nghệ đến lạ lùng. Sau mỗi buổi tập, sau mỗi suất diễn lại thấy anh mải mê đọc. Đầu giường cá nhân của anh ở phòng tập thể lúc nào cũng có sách, báo. Anh theo dõi không sót một số Tạp chí Văn nghệ và Văn nghệ quân đội nào. Tình cờ khi viết bài này, tôi đọc thấy tên anh trên tờ Tạp chí Văn nghệ số 20 (tháng 1-1959). Không phải ký dưới bài thơ mà là dưới mấy dòng rất ngắn trong mục “Bạn đọc với Văn nghệ”. Anh viết rằng: “Nhìn cuộc sống như chuyến xe tốc hành mà chưa thấy cuộc sống đó trên báo chí tôi rất sốt ruột”. Có phải vì sự “sốt ruột” đó mà anh đến với thơ? Có phải vì anh yêu cuộc sống mà anh yêu thơ? Và dường như sau cái lần “sốt ruột” đó, người ta thấy anh bắt đầu bước vào cuộc đời thơ. Cái tên Phạm Ngọc Cảnh đồng thời được ghi vào trong các bảng phân vai và ký dưới các bài thơ. Cùng làm thơ một lớp với anh dạo ấy nay đã có không ít người bỏ cuộc. Anh thuộc số rất ít người giữ được tấm lòng trước sau với thơ. Anh tâm sự: “Ba bề bốn bên của thơ đều rộng, chăm đi mà chẳng dễ thấy bờ”. Phạm Ngọc Cảnh đã có trong tay gần trọn sáu tập thơ. Đó là các tập: Gió vào trận bão (in chung với Ngô Văn Phú-Hoài Anh, 1967), Đêm Quảng Trị (1972). Ngọn lửa dòng sông (1976). Một tiếng Xa-ma-khi (in chung với Xuân Miễn-Duy Khán, 1981), Lối vào phía bắc (1982), Đất hai vùng (1985). Tôi đã thử cất công thống kê những bài thơ của anh được in ra trước khi viết bài này. Khi nói với anh đã đến con số 538 bài thì chính anh cũng thấy bất ngờ! Rất có thể hơn 500 bài thơ kia của anh có quá một nửa là chưa hay nhưng anh còn non nửa số bài đọc được. Và, trong số bài đọc được đó lại có vài chục bài khá, chục bài hay và dăm bảy bài được những người yêu thơ chép vào sổ tay, đưa lên báo chí, đưa lên bục giảng luận bàn.

Thành công của Phạm Ngọc Cảnh phải kể tới bài Trăng lên. Bài thơ anh làm năm 1984 viết về Bác dung dị và thành kính, tha thiết và giàu nhạc điệu. Có thể xem đây là một trong số những bài thơ hay viết về Bác: “Con thấy cõi vô biên/ Không như lòng đã nghĩ/ Khi gặp nét thần tiên/ Trong khuôn vàng dung dị/ Trong lăng Bác chợt nghỉ/ Như sau mỗi việc làm/ Trăng ơi trăng biết thế/ Nên trăng bước nhẹ chăng”… Ngay khi bài thơ mới viết xong, nhạc sĩ Thuận Yến đã cho phổ nhạc và bây giờ nó đã trở thành một trong những bài hát được nhiều người yêu thích.          

Với thơ, sự tìm tòi của Phạm Ngọc Cảnh không dừng lại ở bất cứ một thể loại nào. Có người nói anh giỏi làm thơ lục bát. Có lẽ đúng vậy và anh cũng có lần cảm nhận thấy điều đó, nhưng anh không chỉ làm thơ lục bát. Anh đã thể nghiệm viết trường ca, mới đây thôi, dạo giáp Tết vừa qua lại thấy anh viết thơ-văn xuôi, đồng thời vẫn không quên thể tứ tuyệt.

Phạm Ngọc Cảnh có đến gần mười năm làm biên tập viên thơ ở Tạp chí Văn nghệ quân đội. Thời kỳ này anh có điều kiện gần gũi hơn với rộng rãi bạn viết. Cũng như khi làm thơ, anh chỉn chu trong công việc biên tập. Anh đặc biệt chú ý đến những cây bút mới, các cây bút thơ chiến sĩ, vừa chỉ cho họ về nghề, vừa động viên họ trên tình bạn bè, đồng chí. Bây giờ nhiều cây bút trẻ vẫn còn giữ nguyên những kỷ niệm đẹp về anh.

Phạm Ngọc Cảnh còn được coi là một trong số không nhiều nhà thơ có tài diễn thuyết. Anh đã có hàng mấy trăm buổi đăng đàn nói chuyện thơ với quần chúng. Anh nói với sinh viên văn khoa các trường đại học, nói với các thầy, cô giáo giảng dạy văn học ở những trường phổ thông. Lại có nhiều buổi khác anh dành thì giờ để tâm đắc với một số tổ các cụ đã về hưu. Anh cũng chẳng chối từ khi đứng trước hàng trăm học trò nhỏ. Nhưng có lẽ nhiều hơn cả là những buổi nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang. Có thể từ các cuộc tiếp xúc với quần chúng độc giả này mà tâm hồn anh trẻ ra, càng thêm yêu cuộc sống, yêu thêm thơ.

Anh từng bộc bạch với tôi: “Tôi không bao giờ muốn làm khổ mình trong những dự định. Với thơ, cũng như cuộc sống vốn rất sinh động và chuyển biến từng ngày, vì vậy phải lo sao cho mình theo kịp. Tôi chỉ có ý định là giữ cho mình cái sức trẻ, thật trẻ. Cuộc sống mãi trẻ trung và sẽ rất bất hạnh khi người làm thơ già đi sớm. Tôi chưa làm gì được nhiều nên nghĩ chẳng có quyền già đi trước cuộc sống”. Câu trả lời của anh lại gợi tôi nhớ tới cái dòng anh viết trong mục bạn đọc với Tạp chí Văn nghệ năm nào. Như thế chắc anh vẫn còn chưa bằng lòng với ngót ba chục năm lao động văn học của mình. Với thơ, anh còn lắm đam mê và lẽ vậy mà con người anh, thơ anh mãi trẻ...

NGÔ VĨNH BÌNH