Chỉ đến khi bị trượt giải thưởng, người ta mới thêm một lần nữa điểm lại những giá trị của cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Có không ít ý kiến đánh giá đây là một trong số ít cuốn tiểu thuyết hay nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ 20 viết về đề tài chiến tranh.
Nếu e ngại chuyện “con hát mẹ khen hay”, có thể trích dẫn vô số nhận xét từ bên ngoài biên giới về tác phẩm này cho khách quan.
Diêm Liên Khoa, một trong những tác gia quan trọng nhất của văn học Trung Quốc đương đại, trong lời giới thiệu cho bản dịch tiếng Trung của tác phẩm này mang tựa đề “Tầm cao của văn học chiến tranh phương Đông”, đã nhận xét rằng Nỗi buồn chiến tranh là “một tác phẩm cực hiếm của một nhà văn châu Á phương Đông, hiếm có những miêu tả, nhận thức, phê phán thẩm mỹ đối với chiến tranh, hiếm có trong lý giải và tình yêu đối với con người, những suy nghĩ về nhân tính, hiếm có cả trong biểu đạt nghệ thuật”. Diêm Liên Khoa, tác giả cực kỳ khắt khe trong sáng tác đã thừa nhận rằng Nỗi buồn chiến tranh “là một sáng tác hiếm có của châu Á trong văn học thế giới”.
Hay Giáo sư văn chương Đức Gunter Giesenfeld, người dịch Nỗi buồn chiến tranh sang tiếng Đức, đã nhận xét rằng “trên thế giới có một số tiểu thuyết kinh điển về chiến tranh. Một trong số đó là Phía Tây không có gì lạ của Erich Maria Remarque, nói về Thế chiến 1. Tiểu thuyết của Bảo Ninh thậm chí hay hơn của Remarque”.
Chỉ trích hai trong số rất nhiều ý kiến của những người chuyên nghiệp trong lĩnh vực chữ nghĩa ở nước ngoài đã cho thấy, giới văn chương quốc tế đánh giá rất cao Nỗi buồn chiến tranh. Phải chăng, đây là một trong những tác phẩm lớn của văn học Việt Nam trong suốt một thế kỷ qua?
2. Văn học chữ Quốc ngữ của Việt Nam, gần như song hành cùng với sự truyền bá và phát triển chữ Quốc ngữ trên đất nước ta, có tuổi đời mới khoảng trên dưới một thế kỷ. Trong suốt một thế kỷ ấy, có một câu hỏi luôn đau đáu đối với giới sáng tác, phê bình, quản lý văn hóa hay số đông độc giả, là làm sao để nền văn học Việt Nam có được những tác phẩm lớn, sánh vai cùng cường quốc năm châu?
Giới sáng tác là những người hăm hở đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này mà Nguyễn Đình Thi có lẽ là một trong những người đầu tiên. Nhà văn đa tài này đã sáng tác bộ tiểu thuyết Vỡ bờ, hai tập ra đời với quãng thời gian cách nhau khá xa (tương tự như hoàn cảnh ra đời của bộ "Sông Đông êm đềm" bên Liên Xô trước đây) với tham vọng tạo nên một pho sử thi, phản ánh cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Tuy nhiên, Vỡ bờ dù được đánh giá cao trong thời điểm nó ra đời, đã không gánh nổi cái trách nhiệm nặng nhọc mà tác giả mong muốn đặt vào nó.
Một nhà văn khác cũng đi theo hướng sáng tác những bộ tiểu thuyết bao quát khoảng không-thời gian trên quy mô lớn là Nguyên Hồng. Bộ tiểu thuyết đồ sộ Cửa biển của ông gồm 4 tập: Sóng gầm, Thời kỳ đen tối, Cơn bão đã đến, Khi đứa con ra đời thật sự đã tiệm cận với tính chất sử thi, nhưng do chất lượng không đồng đều giữa các tập nên cũng không mang được gánh nặng một tác phẩm lớn của thời đại.
Từ trường hợp của Nguyên Hồng, mới vỡ lẽ ra một điều: Tạng người Việt Nam nói chung và tạng của văn học Việt Nam nói riêng, có lẽ thích hợp hơn với những tác phẩm cỡ vừa, thậm chí cỡ nhỏ. Độc giả sẽ nhớ nhiều đến Bỉ vỏ của ông hơn là bộ tiểu thuyết cả ngàn trang Cửa biển. Nam Cao đóng đinh vào lịch sử văn học nước nhà với một truyện vừa Chí Phèo.
Và không thể không nhắc đến Vũ Trọng Phụng với tiểu thuyết có số trang khiêm tốn Số đỏ. Nếu coi thời gian là thước đo chính xác và duy nhất thẩm định giá trị một tác phẩm lớn của văn học Việt Nam thì có lẽ không có gì thích hợp hơn Số đỏ, khi mà sau gần một thế kỷ, người ta vẫn đọc tác phẩm này với sự thích thú, vẫn cười, khóc cùng nó và quan trọng nhất, vẫn luôn soi thấy trong nó bóng dáng của thời đại mình đang sống, dẫu bối cảnh mà thời Vũ Trọng Phụng sáng tác đã khác biệt đi rất nhiều.
Đáng buồn là những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian tầm cỡ như Số đỏ khá hiếm trong nền văn học Việt Nam.
3. Lẽ tự nhiên, đi kèm với câu hỏi vì sao văn học Việt Nam hiếm hoi bóng dáng những tác phẩm lớn, sẽ là một câu hỏi khác: Làm thế nào để có được tác phẩm lớn?
Phải chăng, để có được tác phẩm lớn, tác giả phải là người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào sự kiện, mang hơi thở nóng hổi của đời sống vào trong tác phẩm? Như Bảo Ninh đã từng trực tiếp chiến đấu ở địa bàn ác liệt Di Linh, Tây Nguyên, để có được Nỗi buồn chiến tranh. Hay Phan Tứ, tác giả của một trong những cuốn tiểu thuyết ấn tượng nhất trong chiến tranh chống Mỹ, Mẫn và tôi, cũng từng lăn lộn ở chiến trường Khu V...
Nhưng đó không nhất thiết phải là điều kiện bắt buộc. Vũ Trọng Phụng không cần phải sa đà vào hút sách, bài bạc, đĩ bợm mới viết được Số đỏ, Làm đĩ, Cơm thầy cơm cô, Lục xì...
Tựu trung lại, cái làm nên tác phẩm văn chương lớn vẫn chỉ gồm một yếu tố duy nhất: Tài năng.
YÊN BA