Cũng chẳng biết tự khi nào mà tôi biết tự hào về dòng Châu Giang, bến Đò Quan, trạm bơm Hữu Bị, biết yêu vị bùi bùi của củ ấu gai, nhận ra vẻ đẹp bình dị của hoa mẫu đơn và hơn cả, biết thiết tha yêu tiếng khoát nước dưới cầu ao lũm bũm… Nói đến ao, nhà nào ở Hà Nam cũng có một cái ao. Ao giúp người ta vượt đất để làm nhà. Ao giúp người ta đúc những đàn trắm đen, rô đồng lớn nhỏ. Cá cuối năm thường được đem bỏ vào niêu đất, thêm gừng, riềng, chanh, nước cốt cua đồng, hành, tiêu (hoặc ớt), chút cốt sườn lợn, dùng củi nhãn và trấu đun ủ lục bục đủ 24 giờ để trở thành niêu cá kho Đại Hoàng nức tiếng.
Làng Đại Hoàng thực ra nổi tiếng từ lâu lắm, bắt đầu từ trong truyện ngắn Nam Cao. Vượt hàng trăm cây số, đứa con xa quê đến nhà Bá Kiến. Cổng không khóa. Vạt đu đủ, cây nào cây nấy lùn tịt đang oằn lưng cõng quả. Chẳng ai lấy gì của ai cho nên ở đây người ta cứ làm cổng cho có vậy thôi. Chỉ còn sót lại cái sân gạch, chiếc cối đá và ba gian nhà tự. Dãy nhà ngang, nơi thê thiếp, người hầu kẻ hạ, phận tôi tớ của cụ Bá sinh sống giờ đã không còn. Những viên gạch lát nền mang tên gạch thất mòn miệng kể một thời oanh liệt. Chiếc cột lim và dãy ngạch cửa sẹm chân kể những lần suýt bị lửa ăn. Giường, sập, tủ chè, lư đồng,... tất thảy tịnh đâu không thấy. Tôi hồi tưởng lại cuộc sống vương giả, ho ra lửa, thét ra quyền của dòng họ bốn đời làm tổng lý; cảnh chàng Chí Phèo rạch mặt ăn vạ rồi lại nhũn như chi chi khi được cụ Bá đặt vào tay "tận một đồng bạc", âm vực: "Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?" và "Cụ mà chết đi, chúng nó lại chẳng cho ăn bùn!"... tất cả cứ ăm ắp hiện về.
 |
Minh họa: MẠNH TIẾN. |
Với tay khép cổng vườn, nhìn chiếc cối đá chơ vơ, chạnh lòng thương bác Phó Cối, lại nhớ những tàu chuối cong mình "nhễ nhại" hứng ánh trăng, tiếng "thổ" trong đêm, cái quàng vai của người đàn bà thiệt thòi không đẹp mà cũng chẳng khôn, phì cười nhớ câu: "Đàn bà xấu khi yêu cũng lườm", yêu thêm ý thức "cố tỉnh táo để còn yêu nhau" mà bữa đó Chí ta ý thức.
Tạm biệt ngôi nhà của cụ Trần Duy Bính-Bá Bính, nguyên mẫu của cụ Bá Kiến-ngôi nhà mười sáu cột lim với những hàng ngói mũi, ngôi nhà vía nặng, trải bao biến cố mà không hề hấn, tôi đi tìm người sinh ra, người chép lại, người sáng tạo, cho nền văn học Việt Nam một Chí Phèo lừng lẫy, một Bá Kiến oai phong, thâm hiểm, mềm mỏng, để lại cho chúng ta những: Ông giáo Thứ, lão Hạc, Chí Phèo, Thị Nở,... và vô vàn những tác phẩm khác mà nhà văn, liệt sĩ Nam Cao-người con của Đại Hoàng xưa từng viết.
Xóm 8 Nhân Hậu, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, là nơi lưu giữ những kỷ niệm, hiện vật gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của nhà văn Nam Cao. Hơn 5.000m2 là không gian dành để tri ân, tôn vinh những cống hiến của ông cho sự nghiệp cách mạng, cho nền văn học nước nhà, cũng là nơi lưu giữ những kỷ niệm, hiện vật gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của cố nhà văn, bao gồm lăng mộ, nhà tưởng niệm, vườn cây và hồ nước, nằm sát Quốc lộ 38B. Hướng về ban thờ được đặt trên nền cao nửa mét, bước qua ba bậc thềm, phút đối diện với bức tượng bán thân tạc nhà văn mặc đại cán bằng đồng, nhìn dãy Huân chương Kháng chiến và Giải thưởng Hồ Chí Minh được Nhà nước truy tặng treo trên tường, lòng tôi không khỏi bồi hồi. Không một lao xao nào của đoàn học sinh tham quan phía sau lạc vào tai tôi. Tôi không biết người dẫn đoàn đã ý nhị hướng các em đi tìm hiểu về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn trước rồi mới dâng hương, thông qua các hiện vật được sắp đặt theo 4 mảng: Quê hương và gia đình; Cuộc đời và sự nghiệp; Tìm lại Nam Cao và Những hoạt động tưởng niệm, tôn vinh nhà văn Nam Cao được trưng bày bốn phía trong nhà tưởng niệm, nhường cho tôi không gian tĩnh tại trước ban thờ. Tôi cũng không biết đó đây có những đôi mắt tò mò lạ lẫm, thấy tôi đứng rất lâu trước chân nhang sắp hết, trước làn khói mỏng manh tỏa lên trang sách mở...
Tôi đi trên con đường ngoằn ngoèo những vòng cua, trong tiếng lách cách thoi đưa đầy kín muộn chiều, giữa những khung tre treo đầy vải sợi đang vui đùa trước gió. Bên kia dòng Châu Giang, những bãi chuối miên man theo mí nước vẫy những ngón lá dài rất đặc trưng, rất Ngự Hoàng giữa mênh mông lục bình, tha thiết gọi.
Sớm mai, lại cũng khi bình minh còn chưa thức dậy, dẫu buộc lòng tạm biệt nơi này nhưng tôi biết, dưới mỗi bước chân, mảnh đất đầm đẫm phù sa vẫn luôn cựa mình, và chúng tôi, những viên gạch của làng Vũ Đại, dù đi bất cứ nơi đâu cũng mong được trở về với làng quê đang mỗi ngày thêm sinh sôi, trù phú.
Trời vẫn hây hẩy gió.
Tản văn của HÀ NGỌC