Chúng tôi lớn lên ở vùng quê ven sông Hồng, cách Hà Nội 50 cây số, tuổi thơ trôi qua thật êm đềm như bao đứa trẻ khác ở thôn quê. Bố mẹ chúng tôi làm nông nghiệp và cả buôn bán nữa nên thuở bé chúng tôi cũng không thiếu thốn so với bạn bè. Đã thế, vùng đất nơi chúng tôi sinh ra được thụ hưởng món quà trời ban: Cuối năm mùa rươi, đầu năm mùa cá mòi.
Nói là lộc trời vì cá mòi rất giống cá hồi, chúng sinh ra ở vùng nước ngọt, bơi ra biển, chu du khắp đại dương, đến kỳ sinh sản lại bơi ngược dòng từ cửa sông lên thượng du. Ở sông Hồng, tầm tháng hai âm lịch cá bắt đầu về, đến tháng ba âm là chính vụ. Từ bé, hai anh em đã được thưởng thức món cá mòi tươi sống. Những con cá mòi béo nhất được mẹ lựa kỹ, giữ lại trước khi thương lái đến thu mua. Minh sống ở nước ngoài cũng đã 10 năm, thi thoảng nhớ quê, em tôi cũng ra tiệm ăn gọi món cá mòi nướng sơ sốt chanh, nhưng như Minh kể thì chẳng giống vị cá mòi ở quê nhà. Cũng dễ hiểu vì đánh bắt cá mòi ở nước ngoài dùng thuyền lớn, vây bắt cả đàn cá mòi khổng lồ nặng cả tấn ngay giữa đại dương, chứ đâu đánh bắt nhỏ lẻ giữa sông Hồng, mỗi ngày giỏi lắm là được chục cân như những người dân quê tôi. Cũng chẳng ai chứng minh nhưng Minh nhận xét cá mòi ở quê ăn ngon hơn vì lúc bơi ở sông là lúc cá mòi béo nhất, có trứng và chúng dường như “thấm” phù sa nước ngọt nên bớt tanh, bớt mùi gây hơn chăng?
Đúng dịp ở quê đang mùa cá, hai anh em theo chân chú út Ngọc đi đánh cá. Bố chúng tôi đã già, chẳng thể nào đủ sức khỏe thức cả đêm đánh cá như trước. Cơm tối xong xuôi, ba người xuống thuyền giăng lưới. Lưới phải là loại 5 phân, mảnh mắt lưới vừa đủ để bắt những con cá mòi lớn. Chú Ngọc bảo: Trước, nhiều người dân dùng kích điện đánh cá nhưng cách làm này ngoài chuyện tận diệt ra thì hiệu quả cũng chẳng cao do cá mòi chết chìm nhanh, sáng mai mới nổi trắng vì thế người ta đã bỏ cách bắt cá “công nghiệp”. Mắt lưới giờ để đánh bắt cá to giữ cá nhỏ lại cho mùa sau nên năm nào cá cũng về nhiều. Lưới giăng ngang sông, hơn một tiếng sau, ba chú cháu đi gỡ cá, cá mòi mắc lưới dày gỡ mỏi cả tay. Ba người kéo một mẻ lưới vã mồ hôi. Mệt, nhưng Đức Minh vui vì vào buổi đêm khi thu lưới, màu bạc của cá lấp lánh dưới ánh đèn trông khá đẹp mắt.
Chú Ngọc kể, đánh bắt cá mòi thường chia làm hai ca sáng và đêm. Ca đêm tuy vất vả nhưng bù lại là những mẻ lưới nặng. Đêm đến, những chiếc thuyền nan, thuyền tôn, thuyền sắt, cái chèo chân, cái dùng máy, thắp đèn lung linh trên sông Hồng. Cá mòi sinh trưởng và được đánh bắt tự nhiên lại chỉ có theo mùa nên được nhiều người tiêu dùng ưa thích, luôn bán được giá cao và đắt hàng hơn các loại cá khác. Thu mua tại thuyền đã 30.000 đồng/kg, mỗi thuyền cho thu nhập được hơn 10 triệu đồng/tháng.
Cá mòi rời nước chết ngay nên hai anh em đem ít cá về chế biến trước, chú Ngọc về sau. Làm cá mòi không mổ dọc bụng như các loại cá khác, sau khi đánh sạch vảy cá chỉ cần cắt ngang một lát vừa tầm ở phía dưới mang rồi moi mật, ruột ra, dùng tay móc mang cá và tiện dao khía những đường nhỏ quanh sườn cá. Con cá không to nhưng phải làm nhiều công đoạn và phải rất khéo léo để mật không vỡ, trứng còn nguyên, mình cá sạch vảy. Dân gian kể rằng, cá mòi là do chim ngói hóa thành, vào mùa thu chim ngói bay từ rừng ra biển và hóa thành cá mòi. Đến mùa xuân năm sau thì cá mòi mới bơi ngược về rừng để biến thành chim ngói. Truyền thuyết này lý giải cho việc vì sao khi mổ cá lại thấy cá có cái “mề” như của loài chim ngói.
Cá mòi có thể chế biến theo nhiều cách như rán giòn chấm mắm tiêu ớt, xay nhuyễn với thịt ba chỉ làm chả viên, nấu su hào chuối xanh ăn kèm với rau húng. Nhưng ngon nhất vẫn là món gỏi cá mòi. Để làm món gỏi, nên lựa những con cá to vừa phải, dày thịt, xương lại không quá cứng. Cá mòi nhiều xương nên phải cắt ngang thân cá thành từng miếng nhỏ, độ dày nửa phân nhằm làm cho tiết diện xương dăm nhỏ nhất. Sau đó những lát cá được trải ra, để cho ráo nước, thấm bằng khăn cho bớt tanh. Thính dùng để trộn gỏi được rang từ gạo tẻ ngon, đảo chín vàng đều, đem giã hoặc nghiền nhỏ cho dậy mùi. Cá mòi sau đó được đem trộn với thính, ướp gừng, riềng, tỏi băm nhuyễn. Nước chấm được pha với tỷ lệ vừa phải của đường, chanh, ớt tạo vị chua ngọt vừa phải, dễ ăn. Gỏi cá mòi thường ăn kèm với các loại rau quen thuộc, như: Đinh lăng, tía tô, mùi tàu, chuối, khế chua... Năm ngoái, có dịp đi Đà Nẵng nghỉ mát, tôi đến vùng cửa sông Nam Ô ăn gỏi cá trích nổi tiếng. Cá mòi và cá trích hao hao nhau nên cũng hợp vị. Có chăng gỏi cá Nam Ô còn có loại “gỏi ướt”, cá trộn nước mắm với rất nhiều ớt, tỏi và ăn kèm các loại rau rừng của đèo Hải Vân. Vừa nhâm nhi gỏi cá với rượu nếp cái hoa vàng, Đức Minh nhận xét mà tôi cho là đúng: Xã hội công nghiệp ở phương Tây làm mất đi những thú vui ẩm thực. Như món cá mòi ngoài đem nướng sơ, hầu hết cá mòi đánh bắt được đều làm đồ hộp.
Chợt nghĩ, sau này đợi con trai mình cứng cáp hơn chút, tôi sẽ cho cháu học bơi, nghỉ hè sẽ về quê để đánh bắt cá mòi, thưởng thức những món ăn dân dã từ loài cá “lộc trời” này. Tôi tin, dù sau này lớn lên, con tôi có đi đâu, làm gì sẽ vẫn nhớ đến quê hương như Đức Minh bao năm xa xứ vẫn nhớ vị cá mòi quê hương.
Ghi chép của MẠNH DŨNG