QĐND - 1. Đặc điểm của ngôn ngữ thơ
Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học (Goocki). Khi đi vào tác phẩm văn học, nó “là một sự phân tầng khác” của “ngôn ngữ tự nhiên”, “tương xâm” nhưng không đồng nhất với “ngôn ngữ tự nhiên” (I.Lotman). Nếu “ngôn ngữ tự nhiên” thường mang tính ổn định, thì ngược lại ngôn ngữ văn học đặc biệt là ngôn ngữ thơ với tư cách là “mã” nghệ thuật lại luôn thay đổi.
Ngôn ngữ liên tục phát triển theo sự vận động của cuộc sống. Do đó, ngôn ngữ được sử dụng trong thơ cũng phải liên tục được làm mới. Rồi từ đó mới cập nhật và điều chỉnh, định hướng cho cuộc sống này tới những giá trị mới. Đó chính là sứ mệnh của thơ ca nói riêng và văn học nói chung.
Trong sự phát triển ồ ạt của lĩnh vực thơ hôm nay, thơ đang bị coi nhẹ, bị làm loãng ra, bị làm giảm tính nghệ thuật bởi sự ồ ạt này. Mà nguyên nhân cơ bản là ở cách tiếp cận và đổi mới ngôn ngữ của thơ ca.
Ngôn ngữ dùng trong thơ thuộc nhóm ngôn ngữ đặc trưng, nó là những câu chữ bình thường trong cuộc sống, nhưng đã được tác giả mã hóa, để nó chở một hay nhiều ý nghĩa khác đằng sau nghĩa đen của câu chữ. Chính những nghĩa bóng này sẽ tạo ra trường liên tưởng cho người đọc sau khi câu chữ của bài thơ khép lại. Những câu chữ tạo nên sự liên tưởng ấy có thể coi là nhãn tự (mắt của chữ) của câu thơ. Nó khiến câu thơ đa chiều hơn.
Để xét về ngôn ngữ thơ hiện đại hôm nay, cần tìm hiểu kỹ về ngôn ngữ thơ ca qua những tác phẩm đặc trưng của các thời kỳ trong nền văn học Việt Nam.
2. Ngôn ngữ thơ trong ca dao, dân ca
Trong kho tàng ca dao, dân ca của cha ông ta, có nhiều bài nhiều câu đã chạm đến sự tinh túy của nghệ thuật, có lẽ chính vì thế nên nó tồn tại khách quan qua rất nhiều thế hệ người đọc Việt. Mặc dù, về cơ bản, những bài ca dao, bài dân ca ấy là ở dạng thơ mặt phẳng, thơ tự sự… nhưng trong cái tự sự ấy, có những câu đầy sáng tạo.
Thử chạm một vài bài ca dao đặc trưng của cha ông:“Con cò mà đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao/ Ông ơi, ông vớt tôi nao/ Tôi có lòng nào, ông cứ xáo măng/ Có xáo thì xáo nước trong/ Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”.
Bài thơ là một câu chuyện kể về thân phận của một người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Người phụ nữ ấy đã được “mã hóa” qua hình ảnh con cò. Cò là loài chim kiếm ăn về ban ngày, nhưng ở đây con cò này lại kiếm ăn vào ban đêm? Cách đặt vấn đề của tác giả dân gian đã định hướng cho người đọc hiểu rằng, con cò (người phụ nữ) trong bài ca dao này đang làm một việc gì đó khuất tất… Nếu định hướng theo mạch thơ ấy, ta chạm tiếp vào cái bi kịch của người phụ nữ ấy ở câu sau: “Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao”. Hai câu sau là lời kêu cứu của nhân vật: Ông ơi, ông vớt tôi nao/ Tôi có lòng nào, ông cứ xáo măng. Vâng, tôi sẵn sàng chết, sẵn sàng chịu mọi mức án, nhưng mong ở “ông”, người "cầm cân nảy mực" (từ “ông” ở đây nên hiểu là những người đã “nên ông, nên bà” trong cách nói của dân gian xưa) xin ông hãy hiểu rằng, tôi phải đi ngang về tắt, phải làm việc “ăn đêm” này chỉ vì đứa con yêu thương… “Có xáo thì xáo nước trong/ Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”. Bài ca dao với những câu chữ rất bình dị, nhưng được sắp đặt bởi một bộ óc tài hoa của miền thơ, mà những câu chữ bình thường ấy lấp lánh sáng lên. Những nhãn tự của bài thơ chẳng có gì xa lạ. Nào “ăn đêm”; “cành mềm”; “nước trong”, “nước đục”… mà khiến bài thơ mở bung ra những tầng nghĩa rất đẹp về những quan niệm của cuộc sống, về sự nhân văn của tác giả dân gian.
Qua đây, ta tạm kết luận: Ngôn ngữ thơ là nghệ thuật sắp xếp câu chữ theo ý tưởng của tác giả!
Đến với một bài ca dao nữa:“Mình nói với ta mình vẫn còn son/ Ta đi qua ngõ, thấy con mình bò/ Con mình những trấu cùng tro/ Ta đi lấy nước tắm cho con mình”.
Bài ca dao vẫn được viết bằng mạch tự sự đặc trưng. Nội dung là một câu chuyện tình của một đôi trai gái. Nhưng điều đặc biệt ở trong bài ca dao là sự éo le của tình yêu ấy. Đó là người con trai đã có con riêng, trước khi ngỏ lời cùng cô gái. Tại sao chúng ta lại biết đứa bé là con của người con trai? Hãy xem câu thơ: “Con mình những trấu cùng tro”. À, chỉ có người đàn ông vụng về, mới để con mình nghịch ngợm, bẩn thỉu vì tro trấu đến thế, một người mẹ không bao giờ để con mình trong tình trạng tro trấu bám vào người như vậy.
Cách xưng hô trong bài ca dao đã thể hiện một sự trìu mến, hòa đồng, thông cảm. Cha ông đã sử dụng đại từ “mình-ta” để làm rõ điều ấy, nếu chúng ta thử thay cặp đại từ “mình-ta” bằng những cặp đại từ khác như: “chàng-nàng” hoặc “anh-em” hoặc “anh-tôi” thì mức độ biểu cảm của bài ca dao đã giảm đi rất nhiều. Thậm chí là giết chết tính nhân văn của tác phẩm này. Cặp đại từ “mình-ta” tức là hai mà đã ngầm như một rồi.
Như vậy, riêng việc lựa chọn câu chữ cho tứ thơ chính là điểm mấu chốt để tạo nên một tác phẩm có giá trị.
Trong mạch kể của bài ca dao, chúng ta thấy hiện lên một nhân vật “bất đắc dĩ” ấy là đứa trẻ. Những tưởng đứa trẻ ấy sẽ tạo nên một rào cản trước tình yêu của họ… Nó xuất hiện trong tình yêu như một sự thử thách… và hành động: “Ta đi lấy nước, tắm cho con mình” đã gói đủ chín bậc yêu thương, khiến tình yêu ấy cháy rực lên bằng ngọn lửa nhân văn. Mỗi câu mỗi chữ của bài ca dao thấm đẫm sự yêu thương và sự cảm thông, chia sẻ của cõi tình.
Thêm một thí dụ nữa:
Trong bài “Vè nói ngược” tác giả dân gian đã sử dụng ngôn ngữ rất “đắc địa” để biến tác phẩm thành sự chiêm nghiệm sâu sắc, có ý nghĩa khuyên nhủ con người: Bao giờ cho đến tháng Ba/ Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng/ Hùm nằm cho lợn liếm lông/ Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi/ Nắm xôi nuốt trẻ lên mười/ Con gà chai rượu nuốt người lao đao?
Tất cả những câu trên được sử dụng bằng phép dẫn dụ rất tinh nghịch, hóm hỉnh để dẫn người đọc tới câu kết. Tất cả những cái “ngược đời” kia, lại dẫn đến một nhận định chắc chắn về cuộc sống: “Con gà chai rượu nuốt người lao đao”. Thông điệp của bài thơ gói hết vào câu kết này: Phải chăng kiếp người lao đao, khốn đốn vì miếng ăn miếng uống!
Tạm kết luận: Một tác phẩm thơ muốn đứng được, thì câu kết của bài thơ phải chắc chắn, chặt chẽ, nó phải tạo ra sự suy tư, liên tưởng mạnh nơi người đọc.
Việc làm thơ giống như việc xây nhà, kiến trúc thượng tầng là những gì mắt ta nhìn thấy, là bề nổi của căn nhà ấy. Khổ thơ kết, hoặc câu kết chính là nơi tác giả gửi gắm ý đồ tư tưởng của mình. Nó chính là cái móng của căn nhà ấy. Móng có vững thì nhà mới không đổ. Móng không vững thì dù chúng ta có đắp bao nhiêu vàng bạc ở mặt tiền, mặt hậu, có đặt vào trong ngôi nhà ấy những kỳ trân, dị bảo thì khi đổ xuống nó cũng chỉ vẹn nguyên là một đống đổ nát mà thôi.
NGUYỄN THẾ KIÊN