QĐND - Liên hoan âm nhạc mới quốc tế á-âu tại Hà Nội có mục tiêu nhỏ giới thiệu các tác phẩm mới và mục tiêu lớn là kết nối những nền văn hóa trên thế giới bằng âm nhạc...
Liên hoan âm nhạc mới quốc tế á-âu diễn ra tại Hà Nội, từ ngày 8 đến 12-10 quy tụ khoảng 200 nhạc sĩ, nghệ sĩ đến từ 30 quốc gia. Trong suốt thời gian diễn ra liên hoan, công chúng đã được thưởng thức nhiều buổi hòa nhạc với nhiều thể loại khác nhau, như giao hưởng thính phòng, nhạc kịch, hợp xướng, ca khúc. Bên lề liên hoan âm nhạc này, đã diễn ra hội thảo quốc tế về sáng tác âm nhạc trong giai đoạn hiện nay, đây cũng là dịp để ta nhìn lại hoạt động sáng tác của âm nhạc Việt Nam trong thời gian qua.
 |
Hợp xướng hát mừng ngày âm nhạc Việt Nam (Ảnh Hội nhạc sĩ Việt Nam) |
Ca khúc và khí nhạc đã chạm vào mạch nguồn dân tộc
Theo dõi sự phát triển của sân khấu âm nhạc hay rộng hơn là sân khấu nghệ thuật biểu diễn trong khoảng 10 năm qua, chúng ta thấy có nhiều dấu hiệu bất ổn. Cách đây khoảng mười năm, câu chuyện về các ca khúc “vô hồn”, ca từ lạc điệu, đạo nhạc, lai căng là vấn đề nổi cộm của giới nhạc sĩ và báo chí. Rất may, công luận lên tiếng, giới truyền thông vào cuộc với nhiều chương trình tuyên truyền quảng bá nhạc Việt đã dần “gạn đục khơi trong”, đáng kể nhất có các chương trình của truyền hình như: Sao Mai, Con đường âm nhạc, Bài hát tôi yêu, Những ca khúc đi cùng năm tháng, Tiếng hát Mùa thu… Ca khúc dở dần bị loại bỏ, ca khúc hay được tôn vinh xứng đáng, tuy thế điều bất ổn lớn nhất vẫn chưa được giải quyết đó là sáng tác.
Thanh nhạc và khí nhạc có những tác động nghệ thuật khác nhau, nhưng rút cuộc việc truyền tải trạng thái tình cảm của người sáng tác tới công chúng yêu nghệ thuật vẫn là giá trị cốt lõi. Thanh nhạc khi không có ngôn từ làm nơi nương tựa là các bản nhạc lãng mạn (romance). Khí nhạc có các bản giao hưởng. Nhạc sĩ Trần Mạnh Hùng cho rằng, nếu chỉ cần sáng tác ca khúc thì người ta chỉ cần học đến trung cấp là thừa đủ, còn để sáng tác bản nhạc lãng mạn hoặc giao hưởng thì phải đợi đến sau đại học. Nhưng có một thực tế là những học viên khoa sáng tác sau này chỉ chú trọng đến sáng tác ca khúc, vì nó dễ nổi tiếng, nhiều người nghe. Nói chung, không ít cây viết trẻ vẫn đau đáu với những tác phẩm âm nhạc lớn như giao hưởng, hòa tấu, song điều kiện học tập, kiến thức được giảng dạy trong các trường đào tạo âm nhạc còn chưa bắt nhịp kịp với thực tế, nên tạo ra một khoảng trống khá lớn trong đội ngũ sáng tác kế cận hiện nay. Tuy vậy, qua những cuộc hội thảo về sáng tác âm nhạc gần đây, các giảng viên, các nhà quản lý đã nhận ra vấn đề đó và dần có bước điều chỉnh. Hy vọng, đây là tín hiệu tốt cho hoạt động đào tạo sáng tác âm nhạc.
Nhạc sĩ Doãn Nho cho rằng, do ngôn ngữ Việt là đa thanh nên khi đem vào âm nhạc đã phát huy nhiều lợi thế dễ dàng biểu cảm, ông lấy ví dụ từ đoạn kết trong Giao hưởng số 9 của Bét-thô-ven với đoạn kết của Người Hà Nội của Nguyễn Đình Thi có sự đồng cảm đáng ngạc nhiên. Một ca khúc như Người Hà Nội luôn có “tiềm năng” trở thành một bản giao hưởng với hơn “một quản, một chương”. Tương tự, ta thấy có nhiều ca khúc Việt thời kỳ đầu kháng chiến có tầm vóc như những bài giao hưởng như: Sông Lô (Văn Cao); Đường lên Tây Bắc (Văn An); Hò kéo pháo (Hoàng Vân)… Nhạc sĩ Doãn Nho nói: “Nhìn vào lịch sử âm nhạc của đất nước, chúng ta có thói quen nghĩ ngay tới thanh nhạc. Quả thật ở đâu cũng vậy, thanh nhạc có trước, khí nhạc có sau nhưng để làm nên một ngôn ngữ âm nhạc trọn vẹn và bền vững thì phải dựa vào khí nhạc. Chỉ trong khí nhạc mới đạt được âm nhạc tinh chất, âm nhạc thuần túy”.
Nhìn lại vốn liếng của âm nhạc Việt Nam mấy chục năm qua, ta thấy di sản cha anh để lại khá đồ sộ. Khí nhạc và thanh nhạc đã chạm vào mạch nguồn của âm nhạc dân tộc. Đó là bản sắc quý báu của âm nhạc Việt Nam.
 |
Các sáng tác thanh nhạc trên sân khấu văn nghệ quần chúng và chuyên nghiệp luôn thu hút nghệ sĩ và công chúng nghệ thuật (Ảnh: Đông Hà) |
Văn hóa dân tộc là cảm hứng sáng tác
Trong đêm khai mạc Liên hoan âm nhạc mới quốc tế Á-Âu vừa qua, công chúng yêu nghệ thuật đã được nghe những bản giao hưởng mang sắc thái của âm nhạc nhiều nước. U-dơ-bê-ki-xtan mang đến Bài ca tình yêu, các nghệ sĩ Pháp mang đến bản Nước mưa, Na Uy có Mùa xuân lặng yên… Việt Nam có sự góp mặt của hai gương mặt tiêu biểu cho nền khí nhạc nước nhà là Nguyễn Thiện Đạo với tác phẩm Điểm hẹn và Đỗ Hồng Quân qua tác phẩm Đối thoại dành cho đàn bầu và dàn nhạc. Nhìn chung, bên cạnh những nền âm nhạc châu âu, Trung á, khí nhạc Việt Nam đã phô diễn được nhiều nét hay, đẹp, độc đáo để lại ấn tượng mạnh cho công chúng yêu nghệ thuật.
Trong ấn tượng của nhiều người, Đỗ Hồng Quân, Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam là người nổi tiếng chỉn chu, nghiêm ngắn trên vị trí chỉ huy dàn nhạc và các tác phẩm của anh đều mang phong cách cổ điển châu âu. Song thời gian gần đây, xu hướng sáng tác của anh đã có nhiều điểm nhấn mang dấu ấn của âm nhạc dân tộc. Tác phẩm Đối thoại là một ví dụ. Anh đã “kết nối” thành công tiếng đàn bầu-nhạc cụ độc đáo của dàn nhạc dân tộc vào dàn nhạc giao hưởng châu âu. Các sáng tác cho dàn nhạc dân tộc khác của Đỗ Hồng Quân cũng giành được nhiều thành công, có thể kể tới Trổ một, Dáng rồng lên, Lời của đá…
Nguyễn Thiện Đạo, người được giới nhạc sĩ Pháp đánh giá là một trong những tài năng lớn nhất cuối thế kỷ 20, là một cái tên còn ít nhiều xa lạ với giới mộ điệu Việt Nam. ông có hai quốc tịch Pháp, Việt Nam, hiện định cư tại Pa-ri (Pháp). Nhạc của ông mang hơi thở, sức sống của nhạc dân tộc Việt Nam sâu sắc. Trong nhiều lần trả lời phỏng vấn báo chí ông nói rằng âm thanh, giai điệu lắng hồn dân tộc đã ăn sâu trong tiềm thức của mình. Trong gia tài của nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo hiện nay có khoảng 80 bản giao hưởng, trong đó có thể kể tới các bản giao hưởng mang âm hưởng dân tộc như Mỵ Châu-Trọng Thủy, Trương Chi…
Đỗ Hồng Quân, Nguyễn Thiện Đạo có thể được xếp vào lứa nhạc sĩ thứ hai, được học tập bài bản, có đủ trình độ và năng lực sáng tác khí nhạc. Trong lứa này còn có Trọng Đài, Đào Trọng Minh, Đặng Hữu Phúc, Nguyễn Việt Đức, Đức Trịnh, Trần Mạnh Hùng, Phạm Minh Thành… Dù số lượng sáng tác khí nhạc của Việt Nam trong thời gian gần đây là ít song người ta vẫn ghi nhận được xu hướng tìm lại giai điệu trong âm nhạc dân tộc. Nhạc sĩ Vĩnh Cát nhận xét: “Nghệ thuật âm nhạc Việt Nam đang tồn tại và phát triển cả hai thành phần: âm nhạc cổ truyền dân gian, dân tộc và âm nhạc mới đương đại, hay còn gọi là âm nhạc hiện đại dân tộc. Trong hai thành phần ấy đều có cả thanh nhạc và khí nhạc”. Phó giáo sư, nhạc sĩ Vĩnh Cát cho rằng, khí nhạc kén người nghe, và thực tế thì ít người Việt Nam thích thưởng thức khí nhạc. Vậy nên dẫn đến tình trạng sinh viên tốt nghiệp các khoa sáng tác thường có xu hướng “học một đàng, làm một nẻo”, “học khí nhạc nhưng sáng tác tất cả mọi thứ trừ khí nhạc”. Nhạc sĩ Vĩnh Cát cũng như nhiều nhạc sĩ “gạo cội” khác đều cho rằng, sáng tác cần hội đủ “trí” và “cảm”, trong đó “trí” là kiến thức học tại nhà trường, “cảm” là cái phông văn hóa mà người nghệ sĩ thấm nhuần từ “hồn dân tộc”.
Hội thảo về sáng tác âm nhạc trong giai đoạn hiện nay còn ghi nhận nhiều kinh nghiệm quý từ các nhạc sĩ đến từ Phi-líp-pin, Na Uy, Hà Lan, Nga trong việc khơi dậy vốn quý từ âm nhạc cổ truyền, tạo sự say mê cho lớp trẻ, lớp kế cận của đội ngũ sáng tác. Theo đó, các nhạc sĩ đã khai thác rất triệt để chất liệu nhạc dân gian các nước, mở nhiều lớp bồi dưỡng sáng tác từ đồng ấu tới hoa niên để nhiều người tiếp cận với hoạt động sáng tác. Dễ thấy, các cách làm hoàn toàn có thể áp dụng được trong điều kiện của Việt Nam.
Liên hoan âm nhạc mới quốc tế á-âu là dịp giao lưu, chia sẻ văn hóa, thắt chặt thêm tình đoàn kết các dân tộc. Qua 10 dịp liên hoan đã được tổ chức, âm nhạc và văn hóa Việt Nam được giới thiệu đến bè bạn thế giới. Đây cũng là dịp để ta học hỏi bạn trong việc gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa quý báu của cha ông để lại.
LÊ ĐÔNG HÀ