Tuy nhiên hiện nay, vấn đề đào tạo đội ngũ tài năng, diễn viên mới cho kịch hát dân tộc lại đang gặp nhiều khó khăn. Tìm hiểu vấn đề này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi với Phó giáo sư (PGS), Tiến sĩ (TS) Nguyễn Đình Thi, Hiệu trưởng Trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà Nội.

Đào tạo đại trà không thể thành nghề

Phóng viên (PV): Được coi là một trong những ngành nghề đào tạo đặc thù, ông nhận định như thế nào về công tác tuyển sinh cũng như đào tạo ngành kịch hát dân tộc hiện nay?

 PGS, TS Nguyễn Đình Thi.

PGS, TS Nguyễn Đình Thi: Với 8 khoa chuyên ngành đào tạo của nhà trường, có thể khẳng định Khoa Kịch hát dân tộc hiện đang khó tuyển sinh nhất. So với các khoa khác như Truyền hình, Nhiếp ảnh, Sân khấu... mỗi mùa tuyển sinh tỷ lệ chọi rất cao, nhưng Khoa Kịch hát dân tộc thì gần như bằng 0. Thậm chí công tác tuyển sinh của nhà trường cũng khá vất vả. Nhiều năm trở lại đây, khoa khó tổ chức tuyển sinh được trực tiếp, mà nhà trường và giảng viên phải tìm mọi hình thức để tuyển sinh, như: Phối hợp với các địa phương; đến tận các tỉnh, thành phố, trường học; tới các cuộc thi, liên hoan nghệ thuật chuyên nghiệp và không chuyên... để mong sao tìm được thí sinh. Nhưng tìm, tuyển chọn, thuyết phục được thí sinh rồi, khi đưa về trường, nhiều thí sinh vẫn rút hồ sơ; phần nhiều do sự ngăn cản của gia đình, họ nói rằng thấy các nghệ sĩ nổi tiếng như thế mà bao nhiêu năm vẫn phải đi thuê nhà ở, lương rồi thù lao biểu diễn không đủ nuôi con ăn học...

Lo lắng hơn nữa trong công tác đào tạo là thiếu hụt đội ngũ kế cận. Với các ngành diễn viên chèo, nhạc công hằng năm vẫn tuyển được thí sinh; múa rối, cải lương có 5-7 hồ sơ đăng ký, vận động các em nên vẫn duy trì mỗi khóa có sinh viên theo học. Nhưng riêng chuyên ngành diễn viên tuồng, từ sau năm 2011 đến nay, nhà trường chưa mở được khóa học nào, mặc dù mỗi mùa tuyển sinh đều ra thông báo và đi vận động ở khắp các địa phương.

Sinh viên chuyên ngành Diễn viên cải lương K38, Khoa Kịch hát dân tộc trong buổi diễn vở báo cáo tốt nghiệp.Ảnh: CHÂU XUYÊN.

PV: Nguyên nhân sâu xa của vấn đề khó tuyển thí sinh cũng như tìm được tài năng trẻ của kịch hát dân tộc là gì, thưa ông?

PGS, TS Nguyễn Đình Thi: Có nhiều bất cập. Thứ nhất là sự ngăn cản của gia đình, như tôi đã nói ở trên. Nguyên nhân thứ hai là đầu ra, nghệ thuật kịch hát dân tộc ở các đơn vị trực thuộc Trung ương vốn đã khó, thì các em sau khi học về địa phương tìm được công việc còn khó hơn nhiều, do chỉ tiêu biên chế không có; mặt khác, các đơn vị nghệ thuật địa phương đã triển khai sáp nhập, các đoàn nghệ thuật truyền thống co hẹp lại.

Một thực trạng nữa là do trong quá trình tuyển sinh, việc phối hợp với các địa phương khiến nhiều cơ sở đào tạo rất khó từ chối những thí sinh không có năng khiếu từ các sở, ngành “gửi”, từ đó dẫn đến việc tài năng thực sự sau khi học trở về không thể vào được biên chế, mà các suất biên chế ấy “giải quyết” cho đối tượng không phải tài năng. Theo “Đề án đào tạo diễn viên, nhạc công cho các đơn vị nghệ thuật tuồng, nghệ thuật chèo, nghệ thuật cải lương và dân ca kịch chuyên nghiệp trong cả nước giai đoạn 2016-2020” do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt năm 2015, đến nay vẫn tiếp tục thực hiện, trong suốt 4 năm học, các em được hỗ trợ 70% học phí, thêm phần phụ cấp trang phục, trang điểm nữa thì coi như miễn phí hoàn toàn.

Nhiều đoàn nghệ thuật kêu thiếu nguồn nhân lực, nhưng thực chất đang có những bất cập như vậy. Tôi chắc chắn một điều rằng tài năng không thiếu, Nhà nước đầu tư rất nhiều trong công tác đào tạo. Ví dụ như ở trường, trong 8 khoa thì riêng Khoa Kịch hát dân tộc mỗi năm chi phí đào tạo chiếm 4/10, cần trang phục có trang phục, đạo cụ có đạo cụ mới... chúng tôi còn đang tiến hành xây cả nhà thủy đình, chi phí gần 10 tỷ đồng để các em ngành múa rối có địa điểm thực hành. Các ngành diễn viên chèo, diễn viên cải lương... trung bình học 5-6 vai mẫu kinh điển, mỗi vai mẫu lại phải là các nghệ sĩ, chuyên gia đầu ngành thỉnh giảng, chẳng hạn như các vai mẫu phải là NSND Lê Tiến Thọ, NSND Hoàng Khiềm, NSND Mẫn Thu, NSND Minh Gái, NSND Thúy Mùi... Trong khi so với ngành học khác, chỉ cần 1-2 giáo viên, còn ngành học này thì dao động mỗi sinh viên sẽ được học 6-8 giảng viên, kinh phí chi trả cho đội ngũ giảng viên rất tốn kém. Qua đó để thấy, việc đào tạo tài năng kịch hát dân tộc rất bài bản, chuyên sâu, đầu tư tốn kém, chắt lọc tinh hoa, bởi nếu đào tạo đại trà sẽ khó có tài năng cho các loại hình nghệ thuật đặc thù này.

Gỡ nút thắt để phát triển tài năng nghệ thuật truyền thống

PV: Có thể thấy rõ thực trạng tuyển được mà không đào tạo được hoặc tốt nghiệp mà không có việc làm... phải chăng đang làm thiếu vắng những vở diễn hay, tài năng nổi trội?

PGS, TS Nguyễn Đình Thi: Mọi phương cách đã được triển khai nhiều năm nay, gần đây nhất có đề án tăng cường hỗ trợ hơn nữa cho tài năng trẻ. Nhưng nếu chỉ thế thôi thì cũng không giải quyết được vấn đề. Quan trọng nhất vẫn là đầu ra. NSND Thanh Ngoan, Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam-đơn vị nghệ thuật chèo đứng đầu với bề dày truyền thống không ít lần than thở: "Làm thế nào để xin được biên chế cho các diễn viên? Khó lắm, cơ chế không cho!". Nhìn vào con số tổng nhân lực đơn vị đông, nhưng phần nhiều lại không còn khả năng đứng trên sân khấu. Đội ngũ kế cận tài năng, xinh đẹp, hát hay cũng đành ngậm ngùi ra đi, dù có tâm huyết đến mấy nhưng cuộc sống cũng không thể thờ ơ với cơm, áo, gạo, tiền.

Nhiều nhà hát tạo điều kiện cho diễn viên chạy “sô”, hoặc làm các sản phẩm... nhưng không thường xuyên. Đó chính là một phần nguyên nhân dẫn đến khó tìm được tài năng nổi trội trong các loại hình nghệ thuật của kịch hát dân tộc thời gian qua, chứ chưa nói đến vấn đề vở diễn hay, xuất sắc.

PV: Nếu không có phương án hữu hiệu, nghệ thuật truyền thống sẽ phải đối mặt với sự thiếu hụt nguồn nhân lực và như vậy cũng cản trở lớn tới việc định hướng bảo tồn và phát triển như mong đợi?

PGS, TS Nguyễn Đình Thi: Chắc chắn là như vậy. Hơn 60 năm qua, trường đã bền bỉ đào tạo kịch hát dân tộc. Hàng nghìn sinh viên của khoa sau khi tốt nghiệp đã và đang có nhiều cống hiến cho sự nghiệp phát triển sân khấu kịch hát truyền thống của nước nhà. Các chủ trương, chính sách thu hút nguồn nhân tài, đào tạo cho những loại hình nghệ thuật này rất lớn. Nhưng nếu giữ mãi cơ chế cào bằng như thời gian qua sẽ rất khó để xác định kịch hát dân tộc sẽ phát huy, phát triển ở mức độ nào.

Tôi lấy ví dụ, ở phía Nam, những NSND Bạch Tuyết, NSND Lệ Thủy... vẫn đắt “sô” và họ luôn tìm kiếm hình thức thể hiện nghệ thuật sân khấu để đến được với khán giả. Hồi tháng 4 vừa qua, NSND Bạch Tuyết phối hợp với các ca sĩ trẻ hòa giọng hát live trực tiếp ca khúc “Về nghe mẹ ru”. Chỉ sau ít ngày ra mắt, ca khúc đã vươn lên tốp 3 trending (hiệu ứng lan tỏa) âm nhạc trên nền tảng YouTube Việt Nam và nhận về vô số bình luận tích cực. Hiện ca khúc đạt gần 10 triệu lượt xem trên YouTube. Rõ ràng các nghệ sĩ phía Nam không có nhiều cơ hội tiếp cận với ngân sách, rất ít đơn vị nghệ thuật công lập, nhưng nhiều người vẫn sống tốt và nổi tiếng, họ luôn năng động tìm tòi, sáng tạo để đưa nghệ thuật truyền thống đến với khán giả một cách “đời” nhất.

 PV: Cá nhân ông có đề xuất nào trong việc tháo gỡ nút thắt cho những vấn đề trên?

PGS, TS Nguyễn Đình Thi: Tôi có một ví dụ cụ thể, ở Singapore có Nhạc viện kịch hát Trung Hoa, ngôi trường tập trung các nghệ sĩ, nhà nghiên cứu hàng đầu về nghệ thuật truyền thống. Trường có chức năng nghiên cứu, đào tạo và nhà hát biểu diễn. Các buổi diễn chiêu đãi nguyên thủ quốc gia, giao lưu quốc tế hoặc những sự kiện lớn của đất nước Singapore được các nghệ sĩ tên tuổi của trường biểu diễn. Họ được chính phủ đầu tư trọng tâm, trọng điểm, thế nên những nghệ sĩ, giảng viên hay nhà nghiên cứu công tác tại đây có tên tuổi hàng đầu trong nghệ thuật. Vì được đầu tư trọng tâm, trọng điểm nên việc tuyển chọn nhân lực làm việc ở đây được đánh giá là tinh hoa và tinh túy nhất, với mức thu nhập rất cao để yên tâm sáng tạo và cống hiến. Tất nhiên bên cạnh một đơn vị nổi tiếng như vậy thì Singapore vẫn khuyến khích các nhóm, tổ chức, cá nhân tự thành lập, nhưng họ sẽ tìm kiếm cơ hội biểu diễn trong những sân khấu nhỏ, làm dịch vụ du lịch... để kiếm sống cũng như lan tỏa giá trị của nghệ thuật truyền thống.

Việt Nam có làm theo mô hình đó được không? Rất khó trả lời. Hiện tôi được biết các cơ quan Trung ương đang khảo sát để có thể đưa ra phương án tối ưu cho những vấn đề trên.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Có mặt trong buổi biểu diễn vở “Giông tố”-vở diễn tốt nghiệp của 7 sinh viên chuyên ngành Diễn viên cải lương K38, Khoa Kịch hát dân tộc, diễn ra cuối tháng 5 vừa qua, bà Lê Thị Lan (Thọ Xuân, Thanh Hóa), phụ huynh của sinh viên Đỗ Văn Việt mắt ngấn đỏ: "Nhà khó khăn nên con phải tự lực hết. Học không mất tiền, nhưng để sinh sống được ở Hà Nội, hằng ngày ngoài giờ học, Việt phải làm thợ xây, bốc vác thuê, gần đây chạy Grab để có thêm thu nhập. Nhiều lúc tôi nói chuyện với con, theo học hát vất vả mà sau ra trường biết tìm việc ở đâu. Đầy nghệ sĩ nổi tiếng thế mà vẫn không đủ sống. Nhưng Việt cương quyết và cũng động viên với mẹ, cơ chế chính sách của Nhà nước ưu đãi học hành, tập luyện, vả lại cũng thích hát và muốn làm thế hệ phát huy nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Vì thế tôi và gia đình cũng chỉ biết động viên con theo học rồi sau có cái nghề để sống". 

VƯƠNG HÀ (thực hiện)