QĐND - Ta ngự giữa đỉnh trời
Canh một vùng biên ải
Cho làn sương mong manh
Hóa trường thành vững chãi
Lán buộc vào hoàng hôn
Ráng vàng cùng đến ở
Bao nhiêu là núi non
Ríu rít ngoài cửa sổ
Những mùa đi thăm thẳm
Trong mung lung chiều tà
Biết bao chàng lính trẻ
Cứ lặng thinh mà già
Áo lên màu mốc trắng
Tóc đầm đìa sương bay
Lời yêu không muốn ngỏ
Sợ lẫn vào gió mây
Bỗng ngời ngời chóp núi
Em xòe ô thăm ta
Bàng hoàng, xô toang cửa
Hóa ra vầng trăng xa...
Cao Bằng, tháng 8-1995
TRẦN ĐĂNG KHOA
Lời bình của ĐỖ TRỌNG KHƠI
Thơ Trần Đăng Khoa chia ra hai thời kỳ, hai bút pháp, giọng điệu khá riêng biệt. Nếu thời kỳ "thần đồng" có những bài thơ không hề thiếu niên nhi đồng chút nào, với không ít câu thơ cứ như thể câu danh ngôn, giàu trải nghiệm: "Mái gianh ơi hỡi mái gianh/ Thấm bao mưa nắng mà thành quê hương…", hay "Người ta đến phút hiểm nghèo/ Hoặc vằng vặc sáng, hoặc heo hút tàn…"; thì sang thời kỳ trưởng thành, trung niên, thơ ông lại mang một gương mặt trẻ trung với những câu chữ đem đảo ngược hình ảnh tối sáng, lớn bé, xa gần bông lơn, gây được niềm cảm hứng cho người thưởng thức. Và ở độ tuổi này, thơ Trần Đăng Khoa đã thêm một lần nữa tạo cho mình một giọng điệu, phong cách riêng. Ấy là cái tài thơ trời phú cho ông.
“Đỉnh núi” là bài thơ được sáng tác lúc nhà thơ 37 tuổi (1958 - 1995), trải nghiệm, thâm trầm, tầm vóc, vị thế đấy mà đùa vui tếu táo đấy. Đối tượng miêu tả của thơ là người lính nơi biên thùy. Cho dù ở nơi này cũng có cả cấp tá, cấp tướng nhưng danh vị và nhiệm vụ chung trước Tổ quốc thì họ đều là “người lính”. Chính vì có cái “danh vị”, “địa vị” đó, những người lính mới thực sự có tầm vóc. Và chính nhờ thế trụ đó đã cho phép nhà thơ lựa được những hình ảnh câu chữ miêu tả đặc sắc. Từ “Đỉnh núi”-một vị thế rất lớn lao, nhờ vậy, bầu trời kia với làn sương, ráng chiều, vầng trăng, núi non trùng điệp đều hóa ra gần gũi thân thương như trẻ nhỏ, bạn bè, người yêu cùng hoa lá, chim muông ríu rít quanh mình vậy.
Thơ viết với bút pháp tả chân, ngôn ngữ đẹp, nghiêng về tạo hình ảnh phóng dụ, nhân cách hóa thì thường câu thơ còn mang ý tưởng ẩn giấu vào trong từng "mắt chữ". Đây là một thủ pháp nghệ thuật nhà thơ Trần Đăng Khoa hay sử dụng trong thơ của ông.
Với thi phẩm “Đỉnh núi”, nếu tìm cái “mắt chữ” như cửa mở hình ảnh vị thế của bài thơ, thì dễ thấy ngay ở đầu bài “Đỉnh núi”, chữ “ngự”: "Ta ngự giữa đỉnh trời", cũng như chữ “muốn” ở câu: "Lời yêu không muốn ngỏ"… Hãy hình dung, ở câu mở bài, thay chữ “ngự” thành ra chữ “ở”, hoặc chữ “trú", "ngụ” thì cái vị thế, tầm vóc của thơ đã thay đổi hẳn. Phải là cái thế “ngự”-ngự lãm, như cách nhân xưng của bậc đế vương mới đủ sức xác định tầm vóc lẫm liệt, đầy vị thế: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” của người đang làm chủ, trấn giữ, canh gác "ngôi nhà" Tổ quốc.
Trường hợp chữ “muốn”, nếu thử thay bằng chữ “dám”-lời yêu không dám ngỏ, tất sẽ làm “yếu lính” đi nhiều. Cái “giá” của lính-người bảo vệ sự bình yên cho nhân dân-dân tộc, non sông-đất nước vốn là thiêng liêng, cao quý lắm! Đắt giá lắm!
Và ngay khi thể hiện một niềm vui hẫng hụt thì hình ảnh cũng được họa lên một cách rất có tầm vóc, do vậy tình cảm con người trong hoàn cảnh này không trở nên cô đơn, mà ngược lại trở thành cao đẹp. Một vẻ đẹp cho con người, tình người hòa nhập vào tình thiên nhiên, trời đất:
Bỗng ngời ngời chóp núi
Em xòe ô thăm ta
Bàng hoàng, xô toang cửa
Hóa ra vầng trăng xa…
Em-vầng trăng như đã thành một hình ảnh, một thể thống nhất trong trời đất quê hương. Rất hiển hách!
Cảm xúc dạt dào, hình ảnh câu chữ đẹp lộng lẫy và sang trọng, qua bài thơ chiến sĩ này, cho ta nhớ về một bài thơ nhỏ, sáng tác thuở "thần đồng" của ông, bài "Côn Sơn" với những câu: “Sáng đứng đỉnh Côn Sơn/ Hương đồng thơm đầy túi/ Chiều xay thóc góc nhà/ Tóc lại bay gió núi” vẫn cùng dòng cảm xúc khơi gợi từ thiên nhiên ấy. Mới hay thơ Trần Đăng Khoa trước sau, dù viết ở lứa tuổi nào, về vấn đề gì thì bút pháp thơ ông vẫn trong vẻ giản dị, dân dã mà cao sang, tầm vóc.
“Đỉnh núi” là một thành công tiêu biểu của bút pháp, phong cách thơ Trần Đăng Khoa.