QĐND - Đây là tác phẩm được Bác Hồ viết trong một khoảng thời gian dài, có nhiều sửa chữa, bổ sung, cân nhắc kỹ lưỡng. Bản đầu tiên được Người viết vào ngày 15-5-1965. Đến tháng 5-1968 Người xem lại và nhấn mạnh “Đầu tiên là công việc đối với con người...”, hầu như mọi tầng lớp người trong xã hội đều được Bác quan tâm chú ý. Người yêu cầu Đảng, Chính phủ và đồng bào quan tâm một cách thiết thực, cụ thể đến “những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình”; “phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”... Với nhãn quan chiến lược đi trước thời đại, Người sớm nhìn thấy tình hình đất nước sẽ thiếu hụt cán bộ, công nhân kỹ thuật... mà đã đề nghị các cấp lãnh đạo phải sớm có kế hoạch đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nói về đoàn viên và thanh niên, ở ngày hôm nay càng thấy lời Bác mang tính thời sự sâu sắc: "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là một tư tưởng biện chứng, có kế thừa, có phát triển và luôn hướng tới tương lai: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Một đề nghị thật đúng với tinh thần đạo lý tình thương con người của dân tộc khi ta đã hoàn toàn thắng lợi: “Tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”.

Di chúc - theo tính chất thể loại, là một dạng văn bản ghi lại những điều mà người sắp từ giã cuộc đời nói với những người đang sống. Di chúc thường được công bố khi người viết đã ra đi, do vậy đây là một văn bản mà bản thân nó đã gợi nên những gì là ngậm ngùi, tiếc nhớ, buồn thương. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dĩ nhiên vẫn mang những nét đặc trưng thông thường nhưng lại có xu hướng vượt thoát ra ngoài, vươn lên khỏi biên giới thể loại để mang tầm vóc của một tác phẩm văn hóa lớn lao, một văn kiện lịch sử vô giá. Có thể gọi đây là hiện tượng siêu thể loại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu.

Mở đầu tác phẩm là một niềm tin chiến thắng:

"Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.

Đó là một điều chắc chắn".

Ở câu trên mệnh đề song nhất định thắng lợi hoàn toàn là một khẳng định nhưng vẫn được nhấn mạnh một lần nữa ở câu Đó là một điều chắc chắn được tách dòng đứng riêng. Các từ nhất định, hoàn toàn, chắc chắn là không thể thay thế, ví dụ dùng phép giả định tỉnh lược để chỉ còn song sẽ thắng lợi thì nội dung câu văn vẫn giữ nguyên nhưng rõ ràng ý nhấn mạnh vào một niềm tin chắc chắn thì bị giảm đi rất nhiều. Đặt Di chúc trong bối cảnh lịch sử ra đời (1965, 1968, 1969) khi mà cuộc kháng chiến chống Mỹ còn đang ở giai đoạn cực kỳ gian khổ ác liệt, chúng ta càng thấy niềm tin này chỉ có thể có ở một bản lĩnh lớn, một nhãn quan chiến lược thiên tài. Các bản Di chúc đều tràn đầy một niềm lạc quan không gì lay chuyển: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi” (bản 1965); “Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi...” (bản 1968); “...nhất định thắng lợi hoàn toàn” (bản viết ngày 10-5-1969). Đó là niềm tin của bậc đại trí, đại dũng, tin tưởng chắc chắn vào tiền đồ tươi sáng của cả dân tộc. Đó là hiện thân của một tầm vóc văn hóa kiệt xuất, văn hóa của tương lai.

Còn đây là những lời đầy ân tình thể hiện rất rõ cách ứng xử văn hóa truyền thống coi mọi người như người trong một gia đình: “Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam-Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta”. Và tấm lòng biết ơn, tri ân uống nước nhớ nguồn của người Việt: “Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta”.

Trong nội dung chính của tác phẩm (bản công bố), Người đặt ra vấn đề quan trọng nhất: “Trước hết nói về Đảng-Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Người khẳng định công lao, tài năng lãnh đạo của Đảng ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, chỉ ra nguyên nhân thắng lợi: Nhờ đoàn kết chặt chẽ... Trong một câu văn có tới hai lần nói đến hai chữ đoàn kết, vừa để nhấn mạnh vừa để nói vấn đề cực kỳ quan trọng này không chỉ là cách thức, nguyên nhân, phương pháp mà còn là mục tiêu của cách mạng. Cũng trong câu văn này có tới ba lần Người dùng hai chữ phục vụ... Một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc... để nhấn mạnh, để nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải coi đó là phẩm chất, là tiêu chuẩn đạo đức của người cách mạng. Đấy cũng là một nguyên nhân dẫn đến thắng lợi, cũng là lý tưởng, là mục đích của Đảng ta. Chỉ từ mấy dòng văn nhưng đã toát lên một văn hóa đoàn kết và triết lý văn hóa sống vì nhân dân. Đây cũng chính là một trong những hạt nhân cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, là triết lý vị tha của văn hoá Việt. Vấn đề này được Người dành hẳn một đoạn văn ngắn, ngắn về câu chữ nhưng dài rộng về ý, sâu sắc về tình: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Vấn đề phẩm chất, nhiệm vụ của Đảng được Người khái quát lại trong câu văn với một hình tượng thật sinh động và cụ thể: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Đây chính là sứ mệnh của Đảng ta, là tầm văn hoá của Đảng ta: Phải thật trong sạch, có thế mới là người lãnh đạo, có thế mới là người đầy tớ của nhân dân. Rõ ràng trong cách diễn đạt của Người thì hai vấn đề này quan hệ mật thiết, biện chứng, hữu cơ, không thể chỉ có một vế lãnh đạo hoặc đầy tớ, vì thế không nên tách rời hai phương diện này khi phân tích hoặc trích dẫn.

Sinh thời, điều quan tâm nhất của Bác Hồ là... tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi..., là ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành... Đấy là minh triết, đấy là văn hoá, văn hóa đẹp nhất, cao cả nhất. Trong Di chúc, Người thể hiện điều ấy trong câu văn nhắc nhở Đảng ta: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Hôm nay chúng ta tự hào thưa với Bác rằng, chúng ta đã và đang khắc phục khó khăn, đổi mới và chỉnh đốn để làm đúng theo lời căn dặn của Bác và quyết làm rạng danh non sông gấm vóc này để sánh vai với các cường quốc năm châu.

Ở phương diện ngoại giao, văn hóa Hồ Chí Minh là văn hóa kết nối các nền văn hóa: “Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”. Đúng là một tầm nhìn xa, rộng, tầm nhìn chiến lược cách mạng mang tính quốc tế. Cách mạng nước ta luôn nằm trong dòng chảy của cách mạng thế giới, Đảng ta lớn mạnh thêm cũng một phần nhờ sự giúp đỡ của các đảng anh em. Giúp người tức là giúp mình, văn hóa Hồ Chí Minh là thế, Đảng ta phải tự lớn mạnh và sẽ lớn mạnh hơn nhiều khi các đảng anh em đoàn kết thành một khối vì một mục tiêu chung: Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

"Bác sống như trời đất của ta" nhưng "Nâng niu tất cả chỉ quên mình", cả bản Di chúc dài, Bác chỉ dành ít dòng nói về cá nhân mình, nhưng xét kỹ, việc riêng ấy cũng là việc chung, cũng là dĩ công vi thượng. Sinh thời đã vì non nước này đến khi ra đi Người cũng mong muốn thân xác mình hoà vào nước non này. Đó cũng là một ý tưởng được mãi mãi gần gũi với nhân dân, mãi mãi sống cùng đồng bào mình, non sông đất nước mình.

Đối với người cách mạng chân chính thì sống là cho, chết cũng là cho. Bác Hồ của chúng ta là thế, sống đã vì dân, khi từ biệt thế giới này cũng vì dân. Đó là văn hoá vì nhân dân.

Di chúc đã thể hiện trọn vẹn nhất một chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến con người, vì con người, lấy con người là điểm tựa, hướng con người đến những điều tốt đẹp nhất. Chính vì thế mà tư tưởng trong Di chúc vẫn vẹn nguyên giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn, sẽ sống mãi và trở thành tài sản văn hóa tinh thần của dân tộc ta và cả loài người tiến bộ. Văn hóa Hồ Chí Minh là sự tiếp thu, kế thừa, kết tinh, phát triển và nâng cao các giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại. Chính vì thế việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh luôn là một nhu cầu văn hóa đối với tất cả chúng ta.

PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ