Là một trong những hoạt động trọng điểm chào mừng kỷ niệm lần thứ 60 ngày truyền thống LLVT Quân khu 2 và những ngày lễ lớn trong hai năm (2005-2006), cuộc vận động sáng tác văn học-nghệ thuật đề tài LLVT Quân khu 2 trong chiến tranh cách mạng và thời kỳ đổi mới, vừa khép lại. Trong số 86 tác giả tham gia 275 tác phẩm, bên cạnh một số nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ ở Hội văn học-nghệ thuật các tỉnh trên địa bàn quân khu, cuộc vận động đã thu hút khá đông cán bộ, chiến sĩ hiện đang công tác trong LLVT quân khu hưởng ứng nhiệt tình. Dòng chủ đạo của hầu hết các tác phẩm là ca ngợi tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất, tình yêu quê hương, bản làng, truyền thống nhân ái, bao dung và những phẩm chất cần cù, chịu thương, chịu khó của quân và dân Tây Bắc xưa và nay. Cục Chính trị Quân khu đã tuyển chọn 49 tác phẩm tiêu biểu ở các thể loại và phối hợp với Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành cuốn sách mang tên “Hoa ban trắng”.
Thể loại “nổi” hơn cả là các truyện ngắn: “Hoa ban trắng” của Quách Tuấn Vinh kể về Hạnh, người chiến quân y công tác ở một đơn vị kinh tế-quốc phòng ở địa bàn vùng cao. Trên đường đi thăm người chiến sĩ mới được điều về đơn vị, Hạnh gặp Vảng đang đi tìm anh để cứu chữa cho cái bụng con gái Mảy của anh bị “đau như có đá lăn”, và thân thể thì “nóng như cái bếp than vậy”. Câu nói của Giàng Seo Nhí: “Cán bộ à, mày cố bắt giúp con ma núi, cứu con tao với á” như một mệnh lệnh khẩn cấp thúc giục anh hành động. Biết Mảy bị đau ruột thừa cấp tính, sau khi cho uống thuốc và tiêm sơ cứu, anh vội cùng gia đình cõng Mảy đi bệnh viện huyện cấp cứu. Đường xa xôi, hiểm trở, phải vất vả lắm họ mới ra được đường cái và gặp ngay xe của ông chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh. Lập tức, ông đưa Mảy đi bệnh viện kịp thời. Trên đường trở lại đơn vị, khi bơi qua con suối đúng vào lúc nước lũ dâng lên bất ngờ, Hạnh không thể thắng trước cơn thiên tai “thịnh nộ” và anh đã ra đi… Mảy được cứu sống, gia đình anh Vảng-chị Nhí trở lại sinh sống yên bình nhưng trong lòng vẫn luôn khắc khoải và tưởng nhớ người chiến sĩ quân y đã quên mình vì hạnh phúc của gia đình mình. Bởi thế, cứ vào mùa hoa ban nở, đến bên gốc cây ban già nở hoa trắng muốt-nơi Hạnh yên giấc ngàn thu-mẹ con Mảy lặng lẽ thắp hương cho anh. Câu chuyện nhẹ nhàng, ngắn gọn, nhưng để lại trong lòng người đọc một bài học đẹp về tinh thần “Vì nhân dân quên mình” của người chiến sĩ trong thời bình hôm nay. Anh linh của Hạnh đã hóa vào “cánh rừng trắng ngát màu hoa ban tinh khiết” vừa thực, vừa hư khiến câu chuyện có sức cảm.
Bên cạnh số truyện ngắn của một số nhà văn quen biết ở các địa phương như “Con đường chưa đặt tên” của Nguyễn Hùng Sơn (Phú Thọ), “Ánh sáng trong hang dơi” của Nguyễn Kim Chung (Hà Giang), “Ông cháu “Điều lệnh” của Xuân Thu (Phú Thọ)… Cuộc vận động đã xuất hiện một số “cây bút trẻ” có triển vọng trong lĩnh vực truyện ngắn, nhất là truyện ngắn về đề tài tình yêu. Nếu “Chiếc vòng bạc” của Đào Đức Hanh (Nhà văn hóa Quân khu 2) viết dung dị, mềm mại thì “Mảnh trăng không vỡ” của Hoàng Nghiệp (báo Quân khu 2) viết ráo riết, nhưng đậm nét văn hóa dân tộc. Còn truyện “Gió giao mùa” của Trương Văn Định (Đoàn B16) viết trực diện, các tình tiết “chồng lấn” lên nhau nên khi đọc có vẻ không mạch lạc, nhưng xếp theo tình huống cốt truyện thì hợp lý. Ba truyện ngắn của các tác giả trẻ này đều có chung một ý tưởng: Vượt qua những định kiến, phong tục lạc hậu và những trở ngại, khó khăn của cuộc sống thực tại, những mối tình trải qua nhiều chông gai, sóng gió, thử thách khi bén duyên và gắn kết với nhau cuối cùng đều là những mối tình đẹp và đáng trân trọng. Trong những câu chuyện “kết thúc có hậu” đó, tình cảm, tấm lòng nhân hậu, bao dung và sự nâng đỡ, chia sẻ, đùm bọc của người lính luôn hiện lên rất bình dị, tự nhiên như chính cuộc đời của họ.
Về phần thơ, dù chưa xuất hiện những bài thơ hay, những câu thơ đặc sắc, nhưng cũng le lói vài ba “hạt ngọc” đáng quý. Bài “Nụ cười mùa xuân” của Nguyễn Văn Củng viết về một người mẹ nông thôn với những câu dồn nén, cô đọng và tạo được sức gợi trong tâm hồn người đọc: “Tuổi hai mươi/Mẹ là đảng viên/Đóng đảng phí bằng lúa, bằng gạo/Mỗi tháng một bơ” hay: Khi con năm mươi tuổi/Con là Chính ủy trung đoàn/Mẹ vẫn xoa đầu khen ngoan-Thế là tốt và cần cố gắng/Với Đảng/Mẹ là chính ủy của con”… Trong trường ca “Ngày tôi ở xa làng” của Bùi Văn Dung (Vĩnh Phúc), có lẽ đoạn cảm động nhất là ở phần “Nhớ sư đoàn”-một nỗi nhớ da diết, lắng sâu với bao hoài niệm, thương nhớ.
Viết về những người lính Đoàn B16 “biến sỏi đá thành rau xanh”, Đỗ Anh Đức (phòng Tuyên huấn Quân khu 2) có bài “Cổ tích bây giờ” với những câu khá nhuần nhuyễn: “Cổ tích ngày xưa bây giờ thế đấy/Làng lính làng rau hóa thật rồi/Phù sa mát ngọt đất đồi/Rau mời gió xanh theo nhé/Bàn tay những người lính trẻ/Dịu dàng như mẹ chăm con/Ngỡ ngàng bao mắt lá non/Mở trong nắng sớm xoe tròn đợi ai”… Trân trọng những người lính đã không quản gian khổ, khó khăn để “bạt núi, xẻ rừng” làm cho dân bản con đường mới, Giàng A Chư (đơn vị M74-Đoàn B16) đã viết những câu thơ cảm động: “Bản làng đi ra từ mơ ước/Lối mòn nhỏ bây giờ thành đại lộ/Ai tính được những đêm rừng không ngủ/Ai đong mưa ngàn, nhỏ giọt mồ hôi/Ai ra đi từ tiếng bom rơi/Để bật khóc trước tiếng mìn phá đá/Ai đã từng quen bây giờ thấy lạ/Trước con đường như tranh vẽ trong mơ”.
Sáng tác văn học-nghệ thuật rất cần có sự tâm huyết và niềm đam mê của người trong cuộc, nhưng chưa đủ. Để có được một tác phẩm hay, nhất là tác phẩm “neo vào lòng” người đọc quả không dễ dàng chút nào. Cuộc vận động sáng tác văn học-nghệ thuật đề tài LLVT Quân khu 2 trong chiến tranh cách mạng và thời kỳ đổi mới đã thu hút được sự quan tâm chú ý của một bộ phận văn nghệ sĩ trên địa bàn quân khu, nhưng chưa thấy xuất hiện những tên tuổi “tầm cỡ” tham gia để cho ra đời những tác phẩm có giá trị. Tuy vậy, sự tham gia hưởng ứng của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trẻ hiện đang công tác tại các cơ quan, đơn vị trong LLVT Quân khu chứng tỏ văn học-nghệ thuật vẫn luôn có “sức hút” đối với nhiều bạn trẻ mặc áo lính hôm nay. Đã le lói vài ba gương mặt mới, đã có sự lan tỏa tình yêu văn học-nghệ thuật trong đời sống văn hóa tinh thần bộ đội từ cơ sở-đó là thành công đáng ghi nhận trong cuộc vận động này.
NGUYỄN VĂN HẢI