QĐND - Chúng tôi đi dọc theo con đường mòn chỉ đủ rộng cho một chiếc xe bò. Sau khi du hành qua khu rừng rậm trong hai giờ, chúng tôi gặp một cánh đồng rộng mở. Bên kia con đường ở phía tay phải chúng tôi là những cánh đồng bông, vừng, dưa leo và những nông sản có giá trị khác. Xa xa, chúng tôi nhìn thấy những cây dừa, che rợp những cái cây nhỏ hơn. Ở giữa đám cây, chúng tôi nhìn thấy hai, ba nóc nhà, vài cái khác bị che khuất phía sau những tán lá rậm rạp. Cuối cùng, chúng tôi gần tới đích.
Hai nhà báo đi cùng tôi trong cuộc hành trình này. Họ đến để thu thập thông tin về tỷ lệ người thất học trong làng, trong khi mục đích của tôi là ghi lại những câu chuyện dân gian truyền khẩu, sẽ được sử dụng như những tài liệu giảng dạy.
Khi tôi đi dọc theo lề đường mòn, những suy tưởng và ký ức bắt đầu ngoi lên. Tôi suy tư về cách tôi đã rời bỏ và quay lại chốn “chôn nhau cắt rốn” của mình. Cùng với những sự phản chiếu về ký ức cảm xúc này, trong gió, tôi có thể ngửi thấy mùi hăng của lá sả. Tôi nghe tiếng thân tre cọ vào nhau cót két. Từ xa, tiếng ve sầu râm ran rung nhịp cánh tạo thành một bản nhạc tuyệt vời dội vào tai tôi. Tất cả những âm thanh này gợi lên cái không khí quen thuộc về chốn “chôn nhau cắt rốn” của tôi. Nhưng thực sự, chúng tôi tất cả đều quay trở về chốn “chôn nhau cắt rốn” của Bounkham, một trong những bạn đồng hành của tôi.
Khi anh đi vào trong tầm nhìn về ngôi làng xưa, Bounkham hứng khởi nói: “Đã hai mươi năm kể từ khi tôi rời khỏi chốn này! Khi tôi nhìn thấy con đường mòn dẫn tới làng mình, tất cả sự mệt mỏi của tôi dường như tan biến. Nó giống như một bức tranh được khắc trong ký ức tôi”. Giọng Bounkham tràn ngập tiếng cười.
Bounkham kể cho chúng tôi rằng anh sinh ra ở đây. Cũng ở đây, mẹ anh mất khi anh mới tám tuổi. Cha anh tái hôn, lấy một người làng khác, và gia đình di dời từ làng này tới làng khác trong suốt những năm chiến tranh và xung đột xé nát đất nước. Mãi cho đến bây giờ Bounkham mới có dịp quay trở về. Một người cậu vẫn sống trong làng, nhưng ông đã quá già. Bounkham mang hai lon sữa đặc như một món quà kính tặng người cậu. Anh không thể mang hơn hai lon bởi vì đường mòn gồ ghề và quá nặng để mang thêm nữa.
“Liệu có ai trong làng còn nhớ anh không?” - Tôi hỏi.
“Tôi không nghĩ có ai còn nhớ, nhưng tôi sẽ cố hỏi người trong làng nhà cậu tôi ở đâu, bởi vì tôi không nhớ chính xác”.
Chúng tôi tiếp tục đi, khen ngợi sự phong phú của những khu vườn và những vườn cây ăn trái khi chúng tôi nhìn đây đó. Rồi, từ một khu vườn bên phía tay trái chúng tôi, một phụ nữ mang bầu xuất hiện, mang theo một gùi nhiều loại rau khác nhau.
“Xin chào, dì! Dì sống ở đâu vậy?” - Bounkham lễ phép hỏi thăm.
“Ồ, quanh đây…” - Cô trả lời ngập ngừng, nghi ngại về những khuôn mặt không quen.
“Chúng tôi đến từ thành phố. Tôi là người làng này, nhưng tôi đã đi xa nhiều năm rồi. Tôi về thăm làng” - Bounkham giải thích, hy vọng làm yên tâm sự hồ nghi của người đàn bà.
“Ồ, thực sao? Tôi không nhớ người nào bằng tuổi anh lớn lên ở đây. Anh là con trai hay cháu trai của ai ạ?”.
Chúng tôi kể cho cô ấy về tên của mình. Bounkham thậm chí đề cập tên của cha mẹ và cậu. Người đàn bà mang bầu nói với Bounkham rằng cô biết rõ cậu của anh: Ông sống phía nam ngôi làng. Cô sống phía bắc ngôi làng và tự lấy tên là “Mẹ Mù u” (Mae Poon). Bounkham biểu lộ anh chưa từng nghe tên đó trước đây. Tuy thế, anh hưởng ứng một cách tự nhiên, như thể anh nhớ: “Ồ, Mẹ Mù u, mọi thứ trong làng của chúng ta ra sao?”.
Người đàn bà mang bầu đáp rằng dân làng vẫn thoải mái. “Họ đủ ăn và đủ chi tiêu…. Chúng tôi bán nhiều nông sản, nhưng kiếm được rất ít lời bởi vì con đường mòn xấu làm cho việc thông thương khó khăn”. Sau khi nói xong, cô bước xuống cánh đồng lúa ở phía bên phải con đường. Cô nói với chúng tôi rằng cô phải lấy rau cho heo ăn.
Bounkham lấy một lon sữa đặc từ túi và gọi với: “Đợi chút, dì ơi! Xin vui lòng nhận cái này. Xin vui lòng nhận lon sữa đặc này”.
“May mắn nhé, con trai” -người đàn bà mang bầu nói. Sau khi cảm ơn anh, cô rời đi về một hướng khác.
Chúng tôi tiếp tục dọc theo con đường mòn lúc nãy. Tôi tán dương tấm lòng nhân hậu của Bounkham. Anh đã mang hai lon sữa đặc loại đặc biệt biếu ông cậu nhưng anh đã lấy một lon tặng một người hoàn toàn xa lạ.
Trong câu trả lời của Bounkham, tôi nghe thấy cả sự kiêu hãnh và niềm hạnh phúc. “Trong gia đình tôi, chúng tôi được dạy làm điều này, đặc biệt là tôi. Mẹ tôi dạy rằng nếu chúng tôi mang đồ ăn cho mình, khi gặp một người đàn bà mang bầu, chúng tôi phải chia sẻ cho bà ấy. Không kể là nhiều hay ít, chúng tôi phải cho bà một chút. Đó là truyền thống của chúng tôi. Nhiều người trong ngôi làng này đều làm điều đó".
“Cha tôi kể lại cho chúng tôi một câu chuyện mà mẹ tôi đã kể cho ông”-Bounkham tiếp tục. “Ông nói rằng khi bà mang bầu tôi, bà thích đi ra ngoài làng. Một bữa kia, trong lúc đi bộ dọc theo đường mòn, bà gặp một nhóm khoảng năm, sáu người dân làng vừa săn bắn trở về, họ có một con nai, họ lột da và bắt đầu chia thịt. Những người thợ săn này cho mẹ tôi một phần, cùng số lượng chia cho hầu hết người khác. Đây là quyền cho một người đàn bà mang bầu, theo tập tục của chúng tôi. Chỉ một người được phần lớn hơn là người sở hữu khẩu súng. Anh ta nhận một phần gấp đôi, gồm cả đầu, bốn chân và da".
“Tối đó gia đình tôi được ăn món lẩu nai. Sau đó, gần rạng đông, mẹ tôi sinh ra một bé trai, chính là người bây giờ đang đi về phía nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình”.
Chúng tôi cực kỳ hứng thú. Một trong hai nhà báo nói đùa: “Con nai đó chắc hẳn được đầu thai thành Bounkham!”
“Những người dân làng nghĩ theo cách đó. Nếu con nai được đầu thai thành một con nai khác, nó có thể sẽ bị bắn lần nữa. Khi tôi nghe những người dân làng nói đi nói lại, khu rừng rậm trong vùng này không lâu nữa sẽ không có bất cứ con nai nào” - Bounkham nói.
“Thật là một điều mất mát kinh khủng” - tôi nói thêm, và Bounkham tiếp tục với câu chuyện của mình.
“Một người phụ nữ mang bầu cần ăn nhiều để nuôi dưỡng đứa bé bên trong dạ con. Khi một người đàn bà mang bầu nhìn thấy ai đó với thức ăn, cái đói ghê gớm ghì chặt cô, tưởng chừng cô ta có thể ăn cả một con voi. Một người phụ nữ mang bầu kể cho tôi về điều này. Và nếu ai đó không cho một phần thức ăn, người đàn bà đó sẽ không bao giờ quên. Cô ấy sẽ tiếp tục cay đắng đối với kẻ đã không có sự từ bi đối với mình. Theo cha tôi, mẹ tôi cảm thấy thương xót cho con nai đã bị bắn. Chính bà không bao giờ ăn thịt nai, nhưng bà mang phần chia về nhà cho gia đình vì họ sẽ có cơ hội được ăn thịt. Khi tôi được sinh ra, mẹ tôi yêu tôi đặc biệt trìu mến. Nhưng mẹ tôi không bao giờ có cơ hội nhìn thấy khuôn mặt hạnh phúc của đứa con trai trưởng thành của bà. Bà đặt tên là Bounkham, nhưng bà thích gọi tôi là “cục cưng” hoặc “con yêu của mẹ”.
Ngay lúc này, chúng tôi đến gần cổng vào làng. Con đường lởm chởm, và bị kích động bởi câu chuyện của Bounkham, tôi ngoái lại về hướng người đàn bà mang bầu. Cô đã biến mất trong cánh đồng, nhưng cô vẫn còn lưu lại trong ký ức tôi. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy một cảm thức về bổn phận chia sẻ để giúp đỡ một sinh linh bé nhỏ sắp chào đời vào cõi nhân gian này.
Truyện ngắn của OUTHINE BOUNYAVONG (Lào)
DƯƠNG LIỄU dịch