QĐND - Thông tư 18 của Bộ Văn hóa -Thể thao và Du lịch có hiệu lực từ tháng 7-2013, quy định, những người tham gia công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích phải có chứng nhận hành nghề (đối với tổ chức) và chứng chỉ hành nghề (đối với cá nhân). Quy định này nhằm hạn chế “nạn” tùy tiện trong trùng tu di tích, làm “biến dạng”, “khoác áo mới”… cho di tích như thời gian qua. Tuy nhiên, dư luận cũng băn khoăn, nghi ngờ tính hiệu quả của việc cấp chứng chỉ trùng tu di tích.
Chuẩn bị gấp nguồn nhân lực
Có một thực tế, lâu nay các dự án trùng tu di tích vẫn được thực hiện theo phương thức đấu thầu. Do đó, nhiều khi đơn vị trúng thầu lại là những công ty xây dựng dân dụng, không hề có chuyên môn về trùng tu di tích. Trong khi công tác trùng tu là công việc đặc thù, đòi hỏi thợ trùng tu phải là người có kiến thức, am hiểu về di sản, lịch sử, khảo cổ… và đặc biệt phải có kỹ năng, tay nghề bậc cao. GS Lưu Trần Tiêu khẳng định: “Nhìn nhận một cách nghiêm túc, có thể nhận thấy nguồn nhân lực trong hoạt động bảo tồn di tích của chúng ta phần lớn không được đào tạo chuyên sâu về bảo tồn, tính chuyên nghiệp chưa cao. Nhiều năm làm bảo tồn di tích, tôi nhận thấy, ngay trong các thành viên hội đồng khoa học về bảo tồn di tích, đôi khi cũng có người không hiểu các nguyên tắc trùng tu, nhận thức chưa đúng về bảo tồn, tu bổ, phục hồi di tích. Ngay cả các thành viên hội đồng khoa học cũng phải được tập huấn về luật pháp liên quan đến di sản và công ước quốc tế”.
 |
Khu di tích lịch sử Lam Kinh (Thanh Hóa) sau nhiều năm trùng tu được du khách tới thăm khen ngợi đẹp, nhưng lại “bị” các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa cho rằng không đúng với di tích vốn có.
|
GS Hoàng Văn Khoán (Đại học Quốc gia Hà Nội) thì cho rằng, những sai lệch, biến tướng, thậm chí làm biến mất di sản sau khi trùng tu, phục dựng, tôn tạo gây bức xúc trong thời gian gần đây có khi bắt đầu ngay từ trong việc bố trí cán bộ quản lý về văn hóa chưa phù hợp. ông bày tỏ lo ngại, có địa phương, cán bộ phụ trách nông nghiệp sang làm giám đốc sở văn hóa: “Một số giám đốc sở văn hóa ở các địa phương khác, dù cũng có người vốn được đào tạo một chuyên ngành văn hóa nào đó, nhưng thường mạnh sở đoản hơn sở trường”.
Thông tin từ Viện Bảo tồn di tích, trong 3 năm (từ 2010 đến nay), viện đã liên tục tổ chức các khóa đào tạo với mục tiêu bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ kỹ thuật do các giáo sư, nhà nghiên cứu, kiến trúc sư uy tín hoạt động bảo tồn, trùng tu di tích trong nước và quốc tế giảng dạy. 3 năm tổ chức đào tạo, tập huấn với con số gần 300 học viên nhận chứng chỉ có lẽ vẫn là con số nhỏ trong hàng nghìn di tích, công trình văn hóa đang chờ những cán bộ trùng tu có tâm và tài thực thi. Nhận định của những người có uy tín trong hoạt động bảo tồn, nghiên cứu lịch sử, văn hóa thì việc mở ra những khóa đào tạo của Viện Bảo tồn di tích đang kịp thời đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho việc quản lý và thực thi bảo tồn di tích. Nhưng theo kiến trúc sư Lê Thành Vinh -Viện trưởng Viện Bảo tồn di tích, thì hình thức đào tạo đối tượng này chủ yếu vẫn là kiến thức bổ sung, lấp khoảng trống.
Tiếp bước Viện Bảo tồn di tích, một vài cơ sở đã tiến hành đào tạo để cấp chứng chỉ hành nghề như Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Trường Đại học Văn hóa TP Hồ Chí Minh... Dù vậy, thời gian học ít, ai tham gia học đều có chứng chỉ, khiến dư luận lo ngại việc cấp chứng chỉ hành nghề trở nên quá dễ dãi. Mất thời gian, tốn chi phí nhưng chưa chắc chứng chỉ hành nghề đủ bảo đảm cho việc di tích sẽ được "đối xử" tốt hơn.
Hướng tới “thợ” trùng tu chuyên nghiệp
Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa -Thể thao và Du lịch) sẽ là cơ quan đứng ra cấp chứng chỉ hành nghề trùng tu di tích. Chỉ cần có bằng kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng kèm theo chứng nhận đã học khóa bồi dưỡng kiến thức về bảo tồn di tích sẽ được cấp chứng chỉ hành nghề. Theo Cục Di sản văn hóa, việc này sẽ ngăn chặn tình trạng những người làm về kiến trúc, xây dựng nhưng không biết về bảo tồn tham gia việc bảo tồn, trùng tu di tích.
Trả lời băn khoăn về việc một khóa ngắn hạn liệu có đủ “xóa mù” kiến thức về trùng tu di tích, kiến trúc sư Lê Thành Vinh thừa nhận, muốn nâng trình độ phải có quá trình lâu dài, không phải cứ nói là làm được ngay và còn sớm để đánh giá về chất lượng của những người tham gia lớp đào tạo. Ngay tại các khóa bồi dưỡng do viện tổ chức, chất lượng khóa 1 trình độ rất khá bởi chủ yếu là những người giỏi nhất về trùng tu di tích đi học. Dù vậy, kiến trúc sư Lê Thành Vinh cũng đánh giá thông tư ra đời đã thể hiện sự chuyển biến hết sức tích cực và cần thiết trong việc quản lý chất lượng công tác trùng tu di tích. Bởi trước hết, nó sẽ thống nhất được nhận thức xã hội, là để tham gia việc này, cần có năng lực, ngoài ra nó cũng có tác dụng trực tiếp là sàng lọc đội ngũ tham gia hoạt động này, dần dần tiến tới chuyên nghiệp hóa “thợ” trùng tu di tích.
 |
Một ngôi đền nhỏ thuộc huyện Hưng Hà (Thái Bình) sau khi được tư nhân trùng tu đã “khoác” lên mình chiếc “áo” mới quá cỡ.
|
PGS, TS Đặng Văn Bài, Phó chủ tịch Hội Di sản văn hóa Việt Nam cho rằng, lẽ ra việc cấp chứng chỉ hành nghề trùng tu di tích phải có từ lâu, nhưng muộn còn hơn không. Bên cạnh việc cấp chứng chỉ thì các trường có đào tạo nhân lực ngoài hai trường: Đại học Văn hóa Hà Nội và Đại học Văn hóa TP Hồ Chí Minh, thì các Viện Nghiên cứu bảo tồn di tích và Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế phải được coi là “cỗ máy cái” đào tạo cho trùng tu di tích. Trước mắt, cần chấm dứt tình trạng “cơm chấm cơm” tại các nơi đào tạo bằng hai phương thức: Một là tạo điều kiện cho các giáo viên nghiên cứu khoa học, gửi đi đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước nổi tiếng về trùng tu như Nhật Bản, Hàn Quốc, I-ta-li-a…; hai là tạo điều kiện cho người làm công tác trùng tu có cơ hội tham gia dự án hợp tác quốc tế, tiếp cận kinh nghiệm thực tiễn… PGS, TS Trương Quốc Bình, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam thì đề nghị Bộ Văn hóa -Thể thao và Du lịch làm việc với Bộ Giáo dục và Đào tạo để nghiên cứu, ban hành mã số đào tạo bậc đại học về bảo tồn di tích (hoặc di sản văn hóa). GS Lưu Trần Tiêu góp ý, bên cạnh việc nâng cao nguồn đào tạo nhân lực trùng tu di tích, cấp thiết phải có một tổ chức chuyên nghiệp để quản lý, chỉ đạo, giám sát hoạt động bảo tồn di tích, tránh các hiện tượng “trẻ hóa” di tích, “biến di tích thành công viên”… “Đã đến lúc cần thành lập thanh tra chuyên ngành về di sản văn hóa mang tính chuyên nghiệp cao. Thanh tra của Bộ Văn hóa -Thể thao và Du lịch hiện nay đang kiêm đủ lĩnh vực. Không phải ai cũng có đủ kiến thức để thanh tra được vấn đề bảo tồn, trùng tu di tích” -GS Lưu Trần Tiêu cho hay.
Không ít di tích trong cả nước đã bị trùng tu sai lệch bởi những bàn tay thiếu chuyên môn về di tích, và còn nhiều nữa các di tích đang chờ được trùng tu, nhất là trong Mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2011-2015 được Bộ Văn hóa -Thể thao và Du lịch đề ra, Dự án chống xuống cấp, tu bổ và tôn tạo di tích là dự án đứng đầu trong 6 dự án được đầu tư hàng nghìn tỷ đồng. Dù vậy, muộn còn hơn không, với quy định những người tham gia trùng tu di tích phải có chứng chỉ hành nghề, thông tư được nhiều người đặt kỳ vọng sẽ hạn chế những sai sót không đáng có.
Bài và ảnh: VƯƠNG HÀ