QĐND - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã đem đến một sức sống mới cho văn hóa Việt Nam. Đây thực sự là ánh sáng, là điểm tựa cho văn hóa nói chung, văn học nghệ thuật nói riêng nước ta phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa. Vấn đề đặt ra là chúng ta triển khai, tổ chức thực hiện cụ thể hóa đường lối này như thế nào. Bài viết hy vọng góp một tiếng nói nhỏ vào vấn đề rất lớn này.

 Tác phẩm nghệ thuật có giá trị? 

Nghị quyết đề ra nhiệm vụ nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động văn học nghệ thuật là: “...tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiến bộ, phản ánh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước”, tức là nhấn mạnh đến nhân tố quyết định tới chất lượng của văn học nghệ thuật là “đội ngũ văn nghệ sĩ”. Ở đây cần nhắc lại thế nào là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị theo quan niệm của nhà văn nghệ cách mạng tiên phong Hồ Chí Minh. Hồi còn ở Chiến khu Việt Bắc, một lần Người nói với họa sĩ Phan Kế An về ký họa. Theo Người, ký họa có thể đăng báo phục vụ quần chúng là phải “giản dị và có thần” (Những chuyện vui và cảm động về Hồ Chủ tịch. Nxb Công an nhân dân, 2000, tr 232). Tả thần, các cụ ta xưa gọi là phép đại bút, tức không đi vào chi tiết cụ thể mà tả đối tượng bằng một phép khái quát nhất, phải chọn cái cốt lõi, tinh túy nhất, khả năng gợi tả cao nhất về cái toàn thể. “Giản dị và có thần”, đấy là tiêu chuẩn, là nội dung và cũng là cái đích đi tới của nghệ thuật. Hai vấn đề này hoàn toàn thống nhất, giản dị nhưng phải có thần thì có nghĩa là sự giản dị phải vượt qua sự bình thường để đi tới cái phi thường. Rõ ràng, Bác quan niệm về một nghệ thuật đại chúng nhưng không dông dài, đơn giản mà phải vừa giản dị dễ hiểu nhưng phải hay, đặc sắc, độc đáo.

Màn hát múa “Rạng rỡ Việt Nam” trong chương trình nghệ thuật “Sáng mãi Điện Biên” tại Hà Nội dịp kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Ảnh: Duy Văn 

Để có một tác phẩm nghệ thuật như vậy, người nghệ sĩ phải trở về với cuộc sống nhân dân. Cuộc sống ấy vừa là cái nôi, là mảnh đất màu mỡ, vừa là cảm hứng, vừa là đối tượng sáng tạo của nghệ thuật. Bất kỳ một nghệ thuật chân chính nào, trước nay cũng đều bắt nguồn từ đời sống, phản ánh và phục vụ đời sống. Và như vậy mới có thể làm tròn sứ mệnh “soi đường cho quốc dân đi”.

Cái đẹp nằm trong cuộc sống, là bản thân cuộc sống. Người nghệ sĩ phải đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để khám phá, sáng tạo.

Năm 1960, Bác Hồ kêu gọi: “Văn hóa phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng. Vì vậy, nội dung văn hóa phải có ý nghĩa giáo dục… Văn hóa phải gắn liền với lao động sản xuất. Văn hóa xa rời đời sống, xa lao động là văn hóa suông” (Hồ Chủ tịch với một vài vấn đề văn hóa, văn nghệ-Nxb Sự thật, 1965, tr. 107, 108).

 Tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ thâm nhập thực tế

Hôm nay văn nghệ của ta có gắn liền với lao động sản xuất không? Có gần với đời sống không? Câu trả lời là: Chưa. Một đề tài thường gặp của văn học nghệ thuật hôm nay là gì? Là tình yêu, tình dục, tiền vàng, là chuyện cướp bóc, tù tội, là những suy nghĩ quẩn quanh, vụn vặt… Những cái đó đều là đời sống, thuộc về đời sống nhưng dứt khoát không phải là điều cơ bản, không phải là ý nghĩa mang tầm thời đại, không phải là hơi thở của thời đại hôm nay. Hướng văn nghệ đi theo quỹ đạo đổi mới vì mục tiêu nhân bản: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, chính Bác Hồ đã gợi ý cho ngày hôm nay: “…các nhà văn hóa ta cần tổ chức chặt chẽ và đi sâu vào quần chúng”. Trong những năm kháng chiến, các văn nghệ sĩ đã “đi sâu vào quần chúng” bằng những chuyến đi thực tế dài ngày, nhờ đó họ có những tác phẩm để đời. Nhưng hôm nay chúng ta ít có cách thâm nhập thực tế rất cơ bản, cần thiết ấy. Chủ nghĩa Mác quan niệm hiện thực là nguồn gốc của nhận thức. Văn nghệ là một hình thái ý thức nên càng phải cắm sâu vào mảnh đất hiện thực để hút lấy chất dinh dưỡng của cuộc đời. Thoát ly hiện thực, nghệ thuật nhất định khô héo. Vậy thì một trong những cách để thúc đẩy sự phát triển của văn học nghệ thuật hôm nay là tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ thâm nhập thực tế, càng nhiều càng tốt, càng sâu càng hay. Chỉ có từ đời sống, bắt nguồn từ đời sống mới có thể nảy nở những tài năng. Không có cách nào khác, muốn rèn luyện tài năng thì người nghệ sĩ phải trở về cái gốc của nghệ thuật là đời sống muôn màu muôn vẻ kia. Để phát hiện những năng khiếu, điều kiện cần có của tài năng cũng phải tìm từ đời sống. Trong lịch sử văn hóa nhân loại cũng chưa có thiên tài nghệ thuật nào không được gieo hạt, nảy mầm, bắt rễ, lớn lên, trưởng thành từ cái nôi đời sống. Nhà văn lớn Nam Cao từng nhắc nhở chính mình “Sống đã rồi hãy viết”. Các cây đại thụ văn chương thế giới, trước khi có những trước tác đồ sộ, họ cũng đều là những người lăn lộn với cuộc đời: Lỗ Tấn từng là một bác sĩ, du học ở Nhật Bản và đi rất nhiều nơi trên đất Trung Hoa rộng lớn; Sê-khốp vốn là một nhân viên ngành y đã làm một cuộc vạn lý vượt Xi-bê-ri mênh mông đến tận đảo Xa-kha-lin; Goóc-ki đi hầu khắp nước Nga; để trở thành một tiểu thuyết gia, Đích-ken trước đó làm nghề ghi tốc ký ở Nghị viện Anh, nhờ đó mà hiểu sâu sắc đời sống các chính khách; các nhà văn Nga thế kỷ XIX như: Pu-skin, Léc-môn-tốp, Nhê-cra-xốp, L.Tôn-xtôi… đều đã từng tham gia đấu tranh chống chế độ nông nô và phải đi khổ sai, tù đày… Lý giải vì sao các nhà văn thời Phục hưng có những tác phẩm vĩ đại mang tầm nhân loại, Ăng-ghen viết: “Điều làm cho họ đặc biệt nổi bật là ở chỗ hầu hết họ đều hòa mình vào phong trào của thời họ, vào cuộc đấu tranh thực tế; họ tham gia chính đảng, tham gia chiến đấu, người thì dùng lời nói và cây bút, người thì dùng kiếm và thường là dùng cả hai”. Cách giải thích của Ăng-ghen hoàn toàn có thể cắt nghĩa sự thành công của các nhà văn Việt Nam trước nay: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh, Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Phạm Tiến Duật,…

Bác Hồ rất chú trọng vấn đề chủ thể trong sáng tạo nghệ thuật và luôn nhắc nhở các nghệ sĩ phải luôn cố gắng tăng cường bồi dưỡng, giáo dục, ý thức tư tưởng chính trị thường xuyên. Có thể ví phẩm chất chính trị và tài năng (mà Người khái quát thành hai phạm trù “tài, đức” của người cán bộ cách mạng nói chung) như hai cánh của con chim, thiếu một cánh, chim không thể bay được, một cánh yếu, một cánh khỏe chim cũng không thể bay được xa. Chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận đang có tình trạng buông lỏng vấn đề này. Một số đơn vị nghệ thuật còn coi nhẹ việc giáo dục chính trị tư tưởng cho văn nghệ sĩ, quan niệm phiến diện, coi đó chỉ là vấn đề hình thức, còn chuyên môn mới là quyết định. Lại có thể ví cấu trúc nhân cách của người nghệ sĩ như một ngôi nhà thì ý thức văn hóa chính trị lại là nền móng. Nền móng ý thức vững vàng thì ngôi nhà tài năng mới có thể cao to, đẹp đẽ được. Vì sao vậy? Vì tác phẩm văn học nghệ thuật là một sản phẩm văn hóa tinh thần đặc thù được cấu thành bởi các giá trị tinh thần đặc biệt của người nghệ sĩ, trong đó phải có hai thành tố quan trọng là tâm huyết và tài năng. 

Tài năng nghệ thuật luôn là hiếm hoi, bởi không chỉ có cần cù mà phải có năng khiếu mới tạo tiền đề để có một con người nghệ sĩ. Hiếm cho nên quý. Do vậy, rất cần tạo ra một cơ chế riêng ưu đãi cho giới nghệ sĩ. Nghệ sĩ luôn sống bằng cái tôi, tôn trọng, coi trọng cái tôi. Rất cần tạo ra một môi trường cái tôi đặc thù của nghệ sĩ phát triển lành mạnh. Nhưng nghệ sĩ cũng là một công dân, dù có tự do trong cái tôi thì vẫn phải ý thức được trách nhiệm công dân của mình. Lại có một thực tế: Có số ít nghệ sĩ nổi tiếng ở ta sống vương giả hơn cả tỷ phú ở các nước phát triển, xe hơi hàng chục tỷ đồng, ở nhà hàng trăm tỷ đồng, đôi dép hàng trăm triệu đồng… Họ giàu có bởi thu nhập khổng lồ, hát một bài được trả hàng chục triệu đồng! Nếu cứ tình trạng này tiếp diễn thì đó là một cách giết chết người nghệ sĩ bởi tiền bạc sẽ làm cho cái tôi người nghệ sĩ tách biệt quá xa với đồng loại. Xa rời cuộc sống thì nghệ thuật tức khắc úa héo.

  Bài 2: Điểm tựa là truyền thống văn hóa dân tộc

PGS, TS, Nhà văn NGUYỄN THANH TÚ