Ý thức rõ vai trò của công nghiệp quốc phòng (CNQP), ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, ngày 15-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh thành lập Phòng Quân giới trực thuộc Bộ Quốc phòng - tiền thân của Tổng cục CNQP ngày nay, đặt nền móng cho sự ra đời, phát triển của ngành CNQP Việt Nam. Trong các cuộc kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ngành CNQP đã khẳng định vị trí, vai trò, nhiệm vụ, lập nhiều thành tích xuất sắc, góp phần giành độc lập, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trước yêu cầu xây dựng các lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngành CNQP đã nhận được sự quan tâm, chăm lo đặc biệt của Đảng, Nhà nước. Bộ Chính trị (khóa VII, IX, XI) đã ban hành 3 nghị quyết chuyên đề về CNQP, gồm: Nghị quyết số 05/NQ-TW, ngày 20-7-1993; Nghị quyết số 27/NQ-TW, ngày 16-6-2003; Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 16-7-2011. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XII) đã ban hành Pháp lệnh CNQP v.v.. Đây là những văn kiện quan trọng, chỉ đạo, định hướng chiến lược đối với nhiệm vụ xây dựng, phát triển ngành CNQP, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để CNQP nước ta phát triển, vươn lên ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân ủy Trung ương, ngành CNQP đã đạt được một số kết quả quan trọng, góp phần nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm của CNQP, cũng như tiềm lực CNQPAN của đất nước. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng phát triển CNQPAN được quan tâm hơn. Nhà nước đã thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước về xây dựng và phát triển CNQPAN do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban. Bước đầu đã kiện toàn tổ chức CNQP nòng cốt theo hướng tập trung, kết hợp nghiên cứu thiết kế với sản xuất, sản xuất với sửa chữa; đã sản xuất được một số sản phẩm mới, sản phẩm đạt trình độ tiên tiến, đáp ứng một phần nhu cầu vũ khí trang bị kỹ thuật (VKTBKT) cho LLVT, giảm được số lượng VKTBKT nhập khẩu, tiết kiệm ngân sách Nhà nước...

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đã đạt được, quá trình xây dựng nền CNQPAN vẫn còn một số hạn chế, yếu kém. Chất lượng một số sản phẩm thiếu ổn định, độ tin cậy chưa cao. Sự kết hợp sản xuất QPAN với kinh tế tuy được quan tâm, nhưng hiệu quả còn hạn chế; việc thực hiện lưỡng dụng trong các dự án đầu tư và duy trì đội ngũ cán bộ, công nhân viên quốc phòng, dây chuyền công nghệ sản xuất VKTBKT đặc thù còn gặp nhiều khó khăn. Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ (KHCN) của quốc gia và huy động công nghiệp dân sinh phục vụ CNQPAN chưa được coi trọng đúng mức...

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang và sẽ có tác động to lớn đến sự phát triển của VKTBKT và phương thức tiến hành chiến tranh, đòi hỏi ngành CNQPAN phải vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đủ sức bảo đảm VKTBKT cho các LLVT, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII nhấn mạnh: "Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cần tăng cường nguồn lực cho QPAN. Đẩy mạnh phát triển CNQPAN theo hướng lưỡng dụng; tăng cường nguồn lực, tạo cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại cho lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới".

Yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng và phát triển CNQPAN trong thời gian tới ngày càng nặng nề, đòi hỏi phải có nhận thức đúng về xây dựng và phát triển CNQPAN, coi đây là nhiệm vụ cơ bản, vừa có ý nghĩa cấp bách trước mắt, vừa là nhiệm vụ chiến lược lâu dài; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nòng cốt là Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và một số bộ, ban, ngành liên quan trong chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện. Vũ khí, trang bị kỹ thuật do CNQPAN sản xuất phải phù hợp với chiến lược trang bị của các LLVT, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống.

Cần phải xác định lộ trình phát triển CNQPAN phù hợp với điều kiện nền kinh tế đất nước; coi trọng phát triển nguồn nhân lực, nguồn lực KHCN; huy động tối đa thành tựu của công nghiệp quốc gia phục vụ CNQPAN; tập trung đầu tư có trọng điểm cho các sản phẩm mũi nhọn với trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại; tăng tính lưỡng dụng trong đầu tư, phát triển; kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất QPAN với kinh tế. Tự lực, tự cường, phát huy nội lực kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế; phát huy tinh thần khắc phục khó khăn, chủ động sáng tạo trong nghiên cứu, sản xuất và bảo đảm VKTBKT cho các LLVT.

Cần tiếp tục đổi mới tư duy, nghiên cứu tìm ra các giải pháp và cách thức thực hiện nhiệm vụ xây dựng phát triển CNQPAN phù hợp; ứng dụng các thành tựu KHCN tiên tiến, hiện đại, nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa các loại VKTBKT, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ có tính năng kỹ-chiến thuật cao. Sản phẩm CNQPAN phải có tính cạnh tranh, đủ điều kiện xuất khẩu, trên cơ sở làm chủ thiết kế, công nghệ và tăng tỷ lệ nội địa hóa; góp phần xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

VŨ HỒNG KHANH